VASEP: Tôm Việt Nam có nhiều cơ hội xuất khẩu hậu Covid-19
Nếu dịch Covid-19 được giải quyết cơ bản cuối quý II/2020, thị trường thế giới mở cửa trở lại, tôm Việt Nam có thể tranh thủ tận dụng cơ hội thời kỳ hậu Covid-19.
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP) cho biết, trong khi xuất khẩu các mặt hàng như cá tra, cá ngừ, hải sản đều giảm thì xuất khẩu tôm Việt Nam quý đầu năm nay vẫn khả quan hơn khi tăng trưởng nhẹ trong bối cảnh dịch Covid vẫn còn phức tạp trên toàn thế giới.
Mỹ đứng thứ 2 về nhập khẩu tôm Việt Nam, chiếm tỷ trọng 18,4% tổng giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam. Quý I/2020, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt 115,5 triệu USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2019.
Dịch Covid-19 lây lan rộng ở Mỹ bắt đầu từ tháng 3/2020 khiến hoạt động nhập khẩu hàng hóa trong đó có tôm vào thị trường này bị đình trệ. Nhu cầu nhập khẩu cũng giảm do giảm mạnh tiêu thụ ở phân khúc dịch vụ thực phẩm do các biện pháp kiểm soát dịch bệnh của Chính phủ Mỹ. Tuy nhiên, tại các hệ thống bán lẻ vẫn thu mua hàng bình thường nhằm đáp ứng nguồn hàng thiếu do người tiêu dùng Mỹ đổ xô mua đồ trích trữ từ đầu dịch. Trong khi nguồn cung tôm từ Ấn Độ, Ecuador và Thái Lan đang giảm sút do lệnh phong tỏa quốc gia, khách hàng Mỹ quay sang mua tôm Việt Nam.
Nguồn cung tôm lớn nhất cho Mỹ là Ấn Độ, cũng là đối thủ cạnh tranh chính của tôm Việt Nam trên thị trường Mỹ, đang gặp nhiều khó khăn do dịch Covid-19. Lệnh phong tỏa nhằm hạn chế dịch Covid lây lan ở Ấn Độ bắt đầu từ 23/3 và kéo dài đến 18/5 đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất của nước này khi tháng 3 là tháng cao điểm để thả giống vụ hè. Người nuôi tôm ở Ấn Độ gặp khó khăn về nguồn cung và vận chuyển tôm giống trong khi đầu ra bị tắc, không có người chăm sóc tôm vì lệnh phong tỏa, giá tôm nguyên liệu giảm sâu. Do Lệnh phong tỏa, một số nhà máy chế biến của Ấn Độ chỉ có thể hoạt động 50% số lượng công nhân. Giá tôm nguyên liệu tại Ấn Độ tính tới tháng 4 giảm mạnh, ảnh hưởng tới tâm lý người nuôi ngại thả giống, nguồn cung nguyên liệu tại Ấn Độ có thể giảm.
Xuất khẩu tôm Ecuador sang Mỹ cũng dự kiến giảm trong tháng 3/2020 do ngành tôm nước này đang phải hoạt động chỉ với 50% công suất trong bối cảnh Covid-19 vì số ca nhiễm và tử vong vẫn tăng ở nước này.
Sản xuất tôm tại nước này bị ảnh hưởng nặng nề do các công ty chế biến chủ yếu nằm ở Guayaquil, thuộc tỉnh Guayas-đây cũng là tâm dịch Covid ở Ecuador. Một số công ty có nguy cơ phải đóng cửa nếu tình hình dịch bệnh không được cải thiện. Một số nhà máy chế biến không mua thêm nguyên liệu vì không có nhân công làm việc tại các nhà máy do lệnh phong tỏa. Trong khi ngành tôm nước này không nhận được hỗ trợ gì từ phía Chính phủ.
Tại thị trường trong nước, sau một thời gian sụt giảm do ảnh hưởng từ dịch COVID-19, từ đầu tháng 4/2020, giá tôm nguyên liệu tại ĐBSCL đang dần tăng trở lại. Việc giá tôm nhích lên mở ra kỳ vọng thuận lợi cho sản xuất vụ tôm mới.
Cuối tháng 4, giá tôm chân trắng loại 100 con/kg có giá từ 95.000 – 100.000 đồng, so với cách đây 3 tháng, tăng từ 15.000 – 20.000 đồng/kg. Tôm sú cỡ 30 con/kg có giá từ 200.000 – 230.000 đồng, tăng 30.000 – 40.000 đồng/kg.
Video đang HOT
Giá tôm chân trắng tại Bạc Liêu hiện tăng hơn trước 20.000 đồng/kg (đối với loại nhỏ). Cụ thể, tôm chân trắng loại 100 con/kg có giá 90.000 đồng/kg đối với nuôi ao ló t bạt; tôm nuôi ao đất giá từ 80.000 – 85.000 đồng/kg. Các loại tôm chân trắng cỡ lớn tăng nhẹ so với trước: loại 70 con/kg có giá 110.000 đồng/kg; loại 50 con/kg có giá từ 120.000 – 125.000 đồng/kg.
Theo VASEP, dù giá tôm nguyên liệu đã tăng tích cực hơn nhưng do ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn, dịch bệnh trên tôm, dịch Covid phức tạp tại các thị trường tiêu thụ chính, nên người dân vẫn e dè trong việc thả nuôi. Nếu những điểm trên không được khống chế, sẽ rất dễ xảy ra thiếu hụt nguyên liệu tôm khi thị trường hồi phục.
VASEP cho rằng thời gian của vụ tôm nước lợ năm 2020 vẫn còn dài, những dấu hiệu thuận lợi cũng bắt đầu xuất hiện ngày một rõ ràng hơn như nhu cầu tiêu thụ tôm thế giới vẫn có vì tôm là thực phẩm thiết yếu, việc kiểm soát dịch Covid ở Trung Quốc, Hàn Quốc đang có chiều hướng tốt hơn sẽ có thêm hy vọng cho người nuôi và nhà máy chế biến khi đầu ra phần nào được tháo gỡ. Tại thị trường EU, Việt Nam có lợi thế ưu đãi từ Hiệp định EVFTA dự kiến có hiệu lực vào tháng 7 tới, đặc biệt đối với sản phẩm tôm có mức thuế mà Ấn Độ, Thái Lan hay các nước khác không có lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, các yếu tố rủi ro tiềm ẩn vẫn còn, nên doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và người nuôi tôm vẫn cần liên kết chặt chẽ để vượt qua khó khăn, nắm bắt thời cơ khi thị trường hồi phục.
Sử dụng hiệu quả công cụ phòng vệ thương mại trong EVFTA
Khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) chính thức có hiệu lực có thể làm gia tăng số lượng các vụ việc phòng vệ thương mại, đòi hỏi các doanh nghiệp cần tìm hiểu, nắm vững các cam kết trong Hiệp định để chuẩn bị, khai thác các lợi ích mà Hiệp định mang lại, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp.
Xung quanh vấn đề này, phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Lê Triệu Dũng, Cục trưởng Cục Phòng vệ Thương mại (Bộ Công Thương).
Phòng vệ thương mại có ý nghĩa quan trọng như thế nào với nền kinh tế, đặc biệt khi Hiệp định EVFTA đã chính thức được ký vào ngày 30/6/2019 vừa qua và dự kiến sẽ sớm được phê chuẩn, có hiệu lực, thưa ông?
Các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ) được WTO và các Hiệp định FTA cho phép sử dụng để chống lại các hành vi cạnh tranh không công bằng trong thương mại quốc tế (hàng nhập khẩu bán phá giá hoặc được trợ cấp), cũng như ngăn chặn việc hàng hóa nhập khẩu gia tăng đột biến, gây thiệt hại nghiêm trọng cho các ngành sản xuất trong nước. Đây là công cụ quan trọng, hợp pháp để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt khi các hàng rào thuế quan được dỡ bỏ theo các cam kết quốc tế.
Ông Lê Triệu Dũng, Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương). Ảnh: CT.
Trong bối cảnh Việt Nam tham gia sâu rộng vào Hiệp định thương mại tự do (FTA) như ASEAN, ASEAN và gần đây nhất là EVFTA, các biện pháp phòng vệ thương mại đã và đang ngày càng đóng vai trò tích cực đối với nền kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Với các Hiệp định FTA có mức độ cắt giảm thuế quan rất cao như EVFTA, thì áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam hay thậm chí là các doanh nghiệp EU trong một số lĩnh vực cũng sẽ cao hơn, do vậy nhu cầu sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại cũng sẽ tăng.
Chương về các biện pháp phòng vệ thương mại tại Hiệp định EVFTA bao gồm các điều khoản liên quan đến việc sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại truyền thống trong WTO. Về cơ bản, nội dung phòng vệ thương mại dựa trên các quy định của WTO, bổ sung các nguyên tắc mang tính tiến bộ, phù hợp với hệ thống pháp luật về phòng vệ thương mại của Việt Nam, giúp cho nền kinh tế, các ngành sản xuất trong nước có công cụ "phòng vệ" hợp pháp, đảm bảo hiệu quả của việc tham gia Hiệp định; đồng thời, tạo ra môi trường kinh doanh ổn định và thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu.
EVFTA quy định nguyên tắc áp dụng mức thuế thấp hơn, tức là thuế chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp chỉ ở mức đủ để loại bỏ thiệt hại (trong khi WTO không bắt buộc sử dụng quy tắc này). Một điểm đáng lưu ý là theo cam kết EVFTA, hai bên sẽ không áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, nếu việc này không phù hợp với lợi ích chung.
EVFTA cũng quy định về cơ chế tự vệ song phương, để đảm bảo việc cắt giảm thuế quan theo Hiệp định không gây ra các cú "sốc" đối với các ngành sản xuất trong nước. Hiệp định EVFTA quy định cơ chế tự vệ song phương trong thời gian chuyển đổi là 10 năm, tạo cơ sở pháp lý đảm bảo được quyền lợi của các bên được sử dụng công cụ tự vệ chính đáng trong việc bảo vệ ngành sản xuất trong nước nếu có thiệt hại hoặc bị đe doạ thiệt hại do việc cắt giảm thuế quan từ Hiệp định.
Việt Nam đã và đang thực hiện các biện pháp gì để phát huy vai trò của các biện pháp phòng vệ thương mại, từ đó đảm bảo môi trường thương mại công bằng, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, thưa ông?
Để phát huy vai trò của các biện pháp phòng vệ thương mại, Việt Nam đã thực hiện nhiều công việc cần thiết và đạt được nhiều kết quả tích cực.
Về mặt thể chế, Chính phủ, Bộ Công Thương đã thành lập Cục Phòng vệ thương mại chuyên trách các hoạt động về lĩnh vực phòng vệ thương mại, để có điều kiện triển khai mạnh mẽ hoạt động này hơn so với giai đoạn trước đó. Cơ quan điều tra cũng ngày càng được kiện toàn bộ máy, cơ cấu tổ chức để đảm bảo việc thực thi nhiệm vụ một cách hiệu quả.
Về mặt cơ sở pháp lý, với sự ra đời của Luật Quản lý ngoại thương và các văn bản hướng dẫn về các biện pháp phòng vệ thương mại, Việt Nam đã hoàn thiện tương đối đầy đủ, toàn diện cơ sở pháp lý cho các hoạt động điều tra, xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 19/TT-BCT ngày 30/9/2019 quy định về áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình CPTPP và dự kiến sẽ tiếp tục xem xét ban hành các Thông tư hướng dẫn về việc áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt theo các Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực trong tương lai như EVFTA.
Thép là một trong những mặt hàng của Việt Nam bị điều tra phòng vệ thương mại. Ảnh: Hoàng Hải/TTXVN.
Về công tác điều tra các vụ việc phòng vệ thương mại, cho đến nay, Việt Nam đã khởi xướng điều tra 9 vụ việc chống bán phá giá, 6 vụ việc tự vệ và 1 vụ việc lẩn tránh biện pháp tự vệ. Số lượng vụ việc trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng. Sự gia tăng các vụ việc không chỉ thể hiện mức độ cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu đối với hàng hóa trong nước mà còn cho thấy năng lực của doanh nghiệp trong việc chủ động lựa chọn sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích chính đáng.
Với những nỗ lực của Bộ Công Thương trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tư vấn cho cộng đồng doanh nghiệp, Hiệp hội, mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về các biện pháp phòng vệ thương mại trong những năm gần đây đã có nhiều cải thiện.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đã và đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, Hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp liên quan triển khai các hoạt động ứng phó với gần 160 các vụ việc phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, qua đó bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất, xuất khẩu như thủy sản, nông sản, thép, gỗ...
Khi Hiệp định Thương mại tự do EVFTA có hiệu lực, thương mại hàng hóa giữa hai nước sẽ gia tăng do đại đa số các dòng thuế nhập khẩu sẽ được đưa về mức 0%. Từ đó, có thể dự đoán rằng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU sẽ tăng nhanh, dẫn tới khả năng tăng số lượng vụ việc phòng vệ thương mại giữa hai bên (để bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu).
Ngoài ra, do các lợi ích mà Hiệp định EVFTA đem lại lớn, nên không loại trừ nguy cơ một số doanh nghiệp tìm cách gian lận xuất xứ hoặc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại mà EU đang áp với nước khác để hưởng lợi bất chính. Trong bối cảnh đó, các hoạt động phòng vệ thương mại cần tập trung cảnh báo, ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp này.
Bộ Công Thương đã triển khai thực hiện những giải pháp gì để tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại của nước ngoài, cũng như có khuyến cáo như thế nào đối với doanh nghiệp Việt Nam?
Xu thế bảo hộ, xung đột thương mại đang diễn biến phức tạp, đặc biệt trong quan hệ giữa các nền kinh tế lớn, tác động nhiều mặt tới nền kinh tế toàn cầu, khu vực và Việt Nam. Tính đến hết tháng 3 năm 2020, đã có gần 160 vụ việc phòng vệ thương mại, do 19 quốc gia và vùng lãnh thổ khởi xướng điều tra với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Trong số đó, các nước khởi xướng điều tra nhiều nhất là Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, EU....
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, để chủ động ứng phó có hiệu quả với các biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài, các doanh nghiệp cần tìm hiểu quy định pháp luật, thực tiễn điều tra phòng vệ thương mại của các nước xuất khẩu. Bộ Công Thương sẵn sàng hỗ trợ các ngành sản xuất trong nước tìm hiểu các nội dung này.
Trong các vụ việc điều tra chống trợ cấp, doanh nghiệp cần tích cực phối hợp cung cấp thông tin để Bộ Công Thương tổng hợp trả lời, trình Chính phủ; thường xuyên theo dõi, nghiên cứu các khuyến cáo cảnh báo sớm các biện pháp phòng vệ thương mại từ cơ quan phòng vệ thương mại để có các kế hoạch cụ thể cho doanh nghiệp.
Trân trọng cảm ơn ông!
Thu Trang
Bộ Công Thương: Hiệp định EVFTA sẽ giúp đa dạng hóa thị trường Với Hiệp định EVFTA, rất nhiều doanh nghiệp sẽ có lợi ích lớn, trong đó dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU sẽ tăng nhanh với mức khoảng 67% đến năm 2025. EVFTA dự kiến giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 42,7% vào năm 2025. (Ảnh: Đức Duy/Vietnam ) Liên...