Vải trứng Hưng Yên được mùa, được giá
Sau vụ vải lai chín sớm bội thu, người trồng vải Hưng Yên lại tiếp tục đón nhận vụ vải trứng được mùa, được giá.
Đặc biệt, lần đầu tiên quả vải trứng Hưng Yên được xuất khẩu sang châu Âu đang khiến người trồng vải phấn khởi.
Sau vụ vải lai chín sớm bội thu, người trồng vải Hưng Yên lại tiếp tục đón nhận vụ vải trứng được mùa, được giá. Ảnh minh họa: hungyentv
Cung không đủ cầu
Từ đầu tháng 6, các vườn vải trứng tại các huyện Phù Cừ, Ân Thi bắt đầu cho thu hoạch. Đến nay, về cơ bản vải trứng đã cơ bản thu tiêu thụ hết với giá cao.
Theo các nhà vườn trồng vải ở xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ, giá vải trứng năm nay trung bình từ 100.000-150.000 đồng/kg, thậm chí có thời điểm lên đến 180.000 đồng/kg.
Theo lý giải của ông Mai Văn Quyết, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Quyết Tiến, xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ, giá vải cao như vậy là do số lượng vải không đủ để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Chính vì thế có thời điểm giá vải đã lên tới 180.000 đồng/kg, cao gần gấp đôi so với đầu vụ.
Ông Mai Văn Quyết cũng cho biết thêm, vải trứng ngày càng được nâng cao chất lượng với quy trình canh tác an toàn hướng tới hữu cơ. Đặc biệt, vải trứng Hưng Yên quả to, vỏ đỏ, ngọt thơm và thanh mát đặc trưng luôn được những người sành thưởng thức tìm mua. Do đó, dù quả vải trứng giá cao gấp nhiều lần so với loại vải thông thường nhưng vẫn được nhiều khách hàng ưa chuộng, mua làm quà biếu.
Ông Đoàn Văn Hiểu, Giám đốc Hợp tác xã vải trứng Hưng Yên ở thôn Bình Nguyên, xã Đa Lộc, huyện Ân Thi cũng cho hay, năm nay, thời tiết thuận lợi nên vải trứng Hưng Yên được mùa, được giá. Từ trước khi thu hoạch, đã có nhiều thương lái đến tận vườn đặt mua. Vải thu hoạch đến đâu tiêu thụ hết đến đó, thậm chí có thời điểm không đủ để bán. Chính vì thế, giá vải càng về cuối vụ càng tăng cao.
Gia đình ông Đoàn Văn Hiểu có hơn 2ha vải trứng; trong đó, có 3,5 sào đã cho thu hoạch, sản lượng đạt 4 tấn, tăng 20% so với vụ trước. Dự kiến vụ vải năm sau vườn vải của gia đình sẽ cho thu hoạch trên toàn bộ diện tích.
Video đang HOT
Lần đầu tiên xuất khẩu sang châu Âu
Tỉnh Hưng Yên hiện có khoảng 230 ha trồng vải trứng. Loại quả đặc sản này được trồng chủ yếu tại huyện Phù Cừ và một phần diện tích ở huyện Ân Thi. Năm nay, sản lượng vải trứng ở hai địa phương này đạt gần 100 tấn và lần đầu tiên quả vải trứng được xuất khẩu sang thị trường châu Âu. Số lượng xuất đi chưa nhiều nhưng đây là nguồn động viên lớn đối với người trồng vải ở Hưng Yên.
Ông Mai Văn Quyết cho biết, năm nay hợp tác xã thí điểm xuất khẩu sang châu Âu khoảng 5 tạ vải. Đây là thị trường khó tính, đòi hỏi các tiêu chuẩn rất khắt khe. Để xuất được sang châu Âu, quả vải trứng phải trải qua quy trình kiểm tra ngặt nghèo về an toàn thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật… Điều đó đòi hỏi bà con phải tiếp tục chăm sóc cây vải theo quy trình nghiêm ngặt, đảm bảo đúng kỹ thuật để đạt được tiêu chuẩn xuất khẩu.
Hợp tác xã vải trứng Hưng Yên ở xã Đa Lộc, huyện Ân Thi cũng có 3 tạ vải lần đầu tiên được xuất sang châu Âu. Bà con trồng vải rất phấn khởi vì quả vải đã đáp ứng được yêu cầu của thị trường khó tính.
Ông Đoàn Văn Hiểu, Giám đốc hợp tác xã cho biết, với lần đầu thí điểm xuất khẩu sang châu Âu, các nhà vườn trồng vải rất mong quả vải trứng được quảng bá rộng rãi, được nhiều người tiêu dùng trên thế giới biết đến. Người trồng vải cũng cố gắng chăm sóc đảm bảo đúng kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Như thế, thương hiệu quả vải trứng Hưng Yên sẽ bay xa.
Tiếp tục mở rộng diện tích
Thấy được giá trị của quả vải trứng, các địa phương trồng vải ở Hưng Yên đều có kế hoạch mở rộng diện tích.
Ông Vũ Xuân Thuỷ, Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Cừ cho biết, khoảng 5 năm trở lại đây, quả vải trứng bắt đầu được nhiều người tiêu dùng biết đến, hiệu quả kinh tế cao và cung không đủ cầu. Chính vì thế huyện Phù Cừ đã chỉ đạo mở rộng diện tích, không chỉ tập trung ở xã Phan Sào Nam mà còn mở rộng ra các xã Minh Tân, Đoàn Đào, thị trấn Trần Cao.
Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Cừ cũng khẳng định: huyện đã có chủ trương từ rất sớm đối với cây vải, luôn coi trọng nâng cao chất lượng quả vải. Theo đó, huyện đã chú trọng mở rộng diện tích các vùng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, từ khâu chăm bón cho đến thu hái đều được khuyến cáo và giám sát nghiêm ngặt.
Quy trình bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật phải đảm bảo về liều lượng và thời gian để quả vải đạt chất lượng, an toàn cho người tiêu dùng. Ngoài ra, huyện Phù Cừ cũng hỗ trợ giống, vốn cho người dân trồng vải, làm cơ sở hạ tầng như đường ra đồng để ô tô có thể vận chuyển thuận lợi mỗi khi vào vụ.
Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Cừ cho biết thêm, hiện nay ngành nông nghiệp huyện đang thí điểm ghép mầm vải trứng trên gốc vải lai chín sớm đối với những diện tích trồng mới; đồng thời tập huấn, chuyển giao kỹ thuật thâm canh vải, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối doanh nghiệp với nhà vườn, hợp tác xã để tiêu thụ quả vải.
Huyện Phù Cừ hiện có khoảng 220 ha trồng vải trứng; trong đó có khoảng gần 100 ha đang cho khai thác quả. Nếu trồng theo phương pháp truyền thống, cây vải trứng sẽ khó đậu quả, năm được mùa năm mất mùa. Chính vì thế, nhiều hộ nông dân chăm sóc cây vải trứng theo phương pháp kỹ thuật mới với quy trình VietGAP, bảo đảm tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Các nhà vườn trồng vải cũng cho biết, vụ vải năm sau diện tích cho thu hoạch sẽ cao hơn và dự kiến số lượng vải trứng đáp ứng ra thị trường sẽ nhiều hơn.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan: Hợp tác xã là để tạo giá trị cho nông sản
Tại Diễn đàn nông dân hợp tác liên kết trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp - Chào mừng 76 năm ngày hợp tác xã Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức sáng 7/4, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhấn mạnh, hợp tác xã là giải pháp đầu tiên trong các giải pháp để cơ cấu lại nền nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất ở quy mô lớn hơn.
Từ đó, hợp tác xã sẽ tạo ra giá trị cao hơn, đa dạng hóa sản phẩm thay vì chỉ bán nông sản thô.
Chăm sóc rau cải thảo theo tiêu chuẩn VietGap tại hợp tác xã rau an toàn Vân Hội Xanh (Tam Dương, Vĩnh Phúc). Ảnh tư liệu: Nguyễn Thảo/TTXVN
Với quy mô sản xuất đủ lớn, hợp tác xã mới xây dựng được thương hiệu cho từng vùng nguyên liệu, trở thành đối trọng trong liên kết bình đẳng với các doanh nghiệp, giải được bài toán giảm chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng đầu ra.
"Với đầu vào, nông dân được giảm chi phí nhờ mua chung nguyên liệu, vật tư sản xuất... Đầu ra đảm bảo được chất lượng nông sản với quy trình sản xuất đồng bộ. Đó chính là sức cạnh tranh của nông sản", Bộ trưởng Lê Minh Hoan chỉ ra.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, hợp tác xã phải xác định là một thành phần của kinh tế nông thôn để nâng cao thu nhập của nông dân. Thu nhập của nông dân không chỉ là nông sản mà họ sản xuất ra mà còn ở các hoạt động dịch vụ của hợp tác xã như: phân loại, bảo quản, sơ chế, bao bì, đóng gói, thương mại điện tử. Chính giá trị kết tinh từ nhiều công đoạn của chuỗi ngành hàng cộng với địa danh, văn hóa, câu chuyện... sẽ hướng tới giá trị thành quả của nông dân, chứ không chỉ là giá cả của nông sản thô.
Đến hết năm 2021, cả nước có 34.871 tổ hợp tác nông nghiệp và 18.327 hợp tác xã nông nghiệp, chiếm gần 70% tổng số hợp tác xã cả nước với khoảng 3,2 triệu thành viên.
Không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà chất lượng và hiệu hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp cũng đã được cải thiện. Tỷ lệ các hợp tác xã nông nghiệp được đánh giá xếp loại khá, tốt đã tăng lên đạt trên 60%. Đặc biệt, hợp tác xã yếu kém có thời kỳ chiếm 30% nhưng nay còn khoảng 8,5%.
Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn đánh giá, với sự xuất hiện của các hợp tác xã chúng ta thấy rằng, chất lượng nông sản được tăng lên. Các sản phẩm được bán trên thị trường đảm bảo được tính an toàn, mẫu mã... Thông qua các hợp tác xã thì thu hút được các doanh nghiệp đầu tư, trở thành đối tác của nông dân thông qua hợp tác xã. Nhiều hợp tác xã xây dựng được vùng nguyên liệu, phát triển thị trường.
Mô hình hợp tác xã phát triển đa dạng, thích ứng tốt với các điều kiện; trong đó có cả khủng hoảng về xã hội như dịch COVID-19. Trong hơn 2 năm bị dịch COVID-19 nhưng các hợp tác xã vẫn được thành lập, vẫn tăng trưởng trong sản xuất. Đặc biệt, trên 2.000 hợp tác xã đã thành lập được doanh nghiệp trực thuộc để cung cấp đầu vào, đầu ra cho hợp tác xã và cho các thành viên tốt hơn.
Sự xuất hiện của các hợp tác xã trong nông thôn giúp cho các chương trình, chính sách của nhà nước có địa chỉ để đi đến. Như trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, thì hợp tác xã trở thành địa chỉ đầu tư hiệu quả, ông Lê Đức Thịnh đánh giá.
Ông Lê Văn Việt - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Hợp tác xã Xuyên Việt đánh giá, để sản xuất có quy mô hàng hóa, phát triển ở diện rộng thì cần phải có liên kết. Để có liên kết thì hợp tác xã là mô hình đúng và hợp với xu thế, thực tế nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Với Hợp tác xã Xuyên Việt thì hợp tác xã đề cao tính liên kết, đặc biệt chú trọng vào sản phẩm, tính nguyên tắc trong các thành viên để tạo ra vùng nguyên liệu đủ lớn và chuyên nghiệp, tốt về chất lượng.
Để xây dựng được hợp tác xã thành công, theo ông Lê Văn Việt, cần nhìn vào 2 điểm để chọn ra hướng hoạt động của hợp tác xã, đó là: lợi thế của địa phương, tính bức xúc của ngành nghề đó ở địa phương. Chẳng hạn như trong sản xuất thủy sản mang tính tập trung thì thực tế cho thấy, sản lượng tốt nhưng đầu ra có vấn đề. Do đó, chúng ta sẽ phải tập trung vào bức xúc nông dân đang gặp. Khi giải quyết được bức xúc đó thì đây là cái đầu tiên để cho các thành viên hợp tác xã đi theo.
Bên cạnh đó là phải nâng cao tính chuyên nghiệp. Người đứng đầu phải có tầm, tâm, hiểu được những vấn đề thành viên gặp phải và giải quyết được những vấn đề bức xúc từ tâm lý cho đến vấn đề về vốn, khoa học kỹ thuật, đầu ra... Khi làm được như vậy sẽ tạo được niềm tin với các thành viên, từ đó các thành viên sẽ trung thành và thực hiện theo các quy trình mà hợp tác xã đưa ra, ông Lê Văn Việt cho hay.
Tại diễn đàn, các chuyên gia cũng cho rằng chuyển đổi số sẽ là "đòn bẩy" quan trọng giúp hợp tác xã phát triển trên nền tảng ứng dụng khoa học công nghệ sản xuất, giúp tối ưu hóa phân bổ nguồn lực, cắt giảm chi phí. Qua đó, giúp phát triển sản xuất, kinh doanh và tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, nâng cao năng suất của hợp tác xã.
Bên cạnh các chính sách hỗ trợ của nhà nước, theo các chuyên gia, bản thân các hợp tác xã cần chủ động tiếp cận, tìm hiểu các giải pháp số giúp quản lý, vận hành được thuận lợi. Hợp tác xã cần chú trọng định hướng vào công tác đào tạo con người, thu hút nguồn lực trẻ vào làm việc, tạo tiền cho việc tiếp cận và sử dụng giải pháp số hiệu quả hơn.
Hay hợp tác xã cũng có thể liên kết sâu với doanh nghiệp nhằm tận dụng nguồn lực tài chính, nhân sự để thúc đẩy chuyển đổi số. Chẳng hạn như mô hình liên kết giữa Tập đoàn Lộc Trời và Hợp tác xã nông nghiệp An Bình ở An Giang cho thấy vai trò của doanh nghiệp trong chuyển giao ứng dụng và hỗ trợ hợp tác xã sử dụng trạm quan trắc trong sản xuất lúa, sử dụng máy bay không người lái để bón phân, phun thuốc, sử dụng phần mềm quản lý...
Tuyên Quang: Xuống sông Lô đóng lồng nuôi toàn cá đắt tiền, có cả loài cá tiến vua, thương lái tranh nhau mua Sông Lô đoạn chảy qua địa phận tỉnh Tuyên Quang có chiều dài 145km. Tận dụng lợi thế từ dòng sông, nhiều hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đã phát triển nghề nuôi cá lồng, đặc biệt, các loại cá đặc sản "ngũ quý" gồm cá chiên, cá lăng, cá rầm xanh, cá anh vũ, cá bỗng... Nhờ nuôi các...