U xơ tử cung tuy lành tính, nhưng nguy hiểm đến thai kỳ
Ước tính có tới 20-50% phụ nữ ngoài 30 tuổi và 70% phụ nữ 50 tuổi được chẩn đoán có u xơ tử cung (uxtc). trong thời kỳ mang thai, phụ nữ có uxtc dễ gặp phải các biến chứng, cần được theo dõi thai kỳ sớm.
Mang thai có thể tăng kích thước UXTC
UXTC là loại u lành tính, thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào xác định chính xác nguyên nhân gây UXTC. Tuy nhiên các chuyên gia đã khuyến cáo về những yếu tố nguy cơ, chủ yếu là chủng tộc. Theo đó, phụ nữ Nam Á, châu Phi và cùng Trung Đông có nguy cơ mắc bệnh cao hơn các chủng tộc khác; một yếu tố nguy cơ khác là tuổi bà mẹ cao.
Các yếu tố bảo vệ giảm nguy cơ UXTC được ghi nhận bao gồm: tuổi dậy thì trễ, chu kỳ kinh nguyệt dài, sinh con nhiều lần, thời gian cho con bú kéo dài.
Dù là u lành tính, nhưng bệnh làm ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống người bệnh, đặc biệt đối với phụ nữ mang thai.
Những yếu tố của thai kỳ gây ảnh hưởng đến kích thước và tính chất UXTC bao gồm sự thay đổi nồng độ estrogen và progesterone, lượng máu đến tử cung và nồng độ của hCG (hormone có bản chất peptid, được tiết ra từ hợp bào nuôi, có vai trò kích hoạt các tế bào mầm của bào thai phát triển và trưởng thành, giúp kích thích tiết ra hormone sinh dục, hình thành giới tính của thai nhi). Trong giai đoạn thai kỳ, vị trí khối u, kích thước khối u có thể tăng giảm kích thước khác nhau.
Ở các giai đoạn sau của thai kỳ, hoặc khối u ở vị trí cổ tử cung được khuyến cáo tăng kích thước nhanh hơn. Sự phát triển nhanh chóng kích thước của khối u gây thiếu máu và hoại tử, đồng thời tiết prostaglandin gây đau, chèn ép. Sản phụ và thai nhi rất dễ gặp các biến chứng.
Các biến chứng và lưu ý dõi thai kỳ sớm
Dữ liệu về biến chứng thai kỳ ở phụ nữ có UXTC được báo cáo trong nhiều nghiên cứu của nhiều chuyên gia về sản, phụ khoa. Theo đó, trong thời kỳ mang thai, phụ nữ có UXTC có nguy cơ gặp phải các biến chứng: sẩy thai, sinh non, bất thường bánh nhau và ngôi thai; tăng nguy cơ mổ lấy thai và lượng máu mất sau sinh.
Video đang HOT
UXTC thường diễn tiến âm thầm, triệu chứng khó nhận biết. Phát hiện khối u phải dựa vào siêu âm định kỳ trong thai kỳ. Có thể kết hợp chụp cộng hưởng từ, giúp phát hiện những khối u to nhanh, nghi ngờ ác tính (dù rất hiếm). UXTC có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm cho bà mẹ lẫn thai nhi, do đó thai phụ cần được theo dõi thai kỳ để có những hướng điều trị phù hợp.
BS. Tô Mỹ Anh cho biết, yếu tố quan trọng trong điều trị cho phụ nữ mang thai bị UXTC là điều trị các triệu chứng đi kèm. Cần dự phòng và điều trị thiếu máu trước sinh, để giảm nguy cơ xuất huyết nặng cũng như khả năng cần phải truyền máu. Điều trị giảm đau, kháng viêm ở khối u có triệu chứng, ưu tiên sử dụng các loại thuốc giảm đau kháng viêm an toàn trong thai kỳ. Chỉ định, sử dụng thuốc phải tuân theo đơn thuốc của bác sĩ.
Hầu hết UXTC không gây triệu chứng trong thai kỳ, nên phẫu thuật bóc UXTC là không được khuyến cáo. Phẫu thuật bóc khối UXTC trong thai kỳ tăng nguy cơ biến chứng như xuất huyết, vỡ tử cung, mất thai, sinh non. Tuy nhiên, việc phẫu thuật không thể trì hoãn trong một số trường hợp như: UXTC gây đau không đáp ứng điều trị nội khoa do u thoái hóa, u lớn phát triển nhanh, u có cuống bị xoắn. Phẫu thuật phải trên cơ sở tư vấn chi tiết các biến chứng của thai phụ.
UXTC không phải là chỉ định mổ lấy thai. Hầu hết các thai phụ có UXTC có thể được theo dõi sinh ngả âm đạo một cách an toàn. Tuy nhiên dựa trên kích thước, vị trí của khối UXTC, tình trạng đáp ứng điều trị của thai phụ, bác sĩ có thể tư vấn chấm dứt thai kỳ cho để đảm bảo an toàn nhất cho người mẹ và thai nhi.
Mổ lấy thai có thể được cân nhắc trong trường hợp UXTC gây cản trở đường xuống của thai do khối u to hoặc UXTC nằm ở đoạn dưới tử cung, hoặc khối u nằm giữa phần ngôi thai trình diện và cổ tử cung. UXTC nằm thấp ở đoạn dưới cũng có thể làm tăng tỷ lệ sót nhau.
Các bác sĩ khuyến cáo: “UXTC là loại u phụ khoa phổ biến nhất trong thai kỳ, thường lành tính, ít gây các triệu chứng. Các yếu tố thay đổi nội tiết, cấu trúc giải phẫu của thai phụ có thể tác động lên khối u, làm tăng kích thước, gây nhiều biến chứng: sảy thai, nhau bong non, nhau tiền đạo, ngôi bất thường, tăng tỷ lệ mổ lấy thai. Do đó, thai phụ có UXTC cần được khảo sát đặc điểm u, tư vấn về tiên lượng biến chứng, song song với kế hoạch theo dõi thai kỳ sớm”.
UXTC thường diễn tiến âm thầm, triệu chứng khó nhận biết. Phát hiện khối u phải dựa vào siêu âm định kỳ trong thai kỳ. Có thể kết hợp chụp cộng hưởng từ, giúp phát hiện những khối u to nhanh, nghi ngờ ác tính (dù rất hiếm). UXTC có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm cho bà mẹ lẫn thai nhi, do đó thai phụ cần được theo dõi thai kỳ để có những hướng điều trị phù hợp.
Chuyên gia tư vấn cách xử trí u xơ tử cung
GS.TS Trần Thị Phương Mai - nguyên Phó vụ trưởng Vụ Sức khỏe bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế, cho biết, xơ tử cung là khối u vùng chậu phổ biến nhất ở phụ nữ.
Ảnh minh họa
Khối u xơ tử cung nặng như thai 8 tháng
Đa số các trường hợp u xơ tử cung (UXTC) không có biểu hiện lâm sàng. Ước tính chỉ có khoảng 25% UXTC có biểu hiện lâm sàng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và khoảng 25% trong số đó có triệu chứng nặng cần điều trị.
GS.TS Trần Thị Phương Mai - nguyên Phó vụ trưởng Vụ Sức khỏe bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế
UXTC hay u xơ cơ tử cung là khối u lành tính do sự phát triển quá mức của các sợi cơ trơn và mô liên kết là khối u lành tính tần suất thường tăng theo tuổi khoảng 20-30% tăng ở phụ nữ lớn hơn 30 tuổi và khoảng 70% gặp ở phụ nữ trên 50 tuổi.
UXTC thường không có triệu chứng nên chỉ phát hiện được qua khám hoặc siêu âm, một số trường hợp có thể gây cường kinh, rong kinh hoặc đau do chèn ép khi khối u to ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, hoặc khả năng sinh sản sẽ có chỉ định điều trị.
Chẩn đoán u xơ tử cung
Theo GS.TS Phương Mai thông thường bác sỹ sẽ dựa vào việc hỏi tiền sử của bệnh nhân, khám lâm sàng và chẩn đoán qua siêu âm, nếu UXTC không có triệu chứng thì không cần can thiệp. Không nên điều trị dự phòng để tránh biến chứng trong tương lai.
Hướng xử trí
- Nếu bệnh nhân bị UXTC ở lứa tuổi sinh sản và tuổi tiền mãn kinh, mãn kinh chỉ nên theo dõi 3 - 6 tháng 1 lần không cần điều trị.
- UXTC ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản:
Theo dõi sự phát triển của kích thước khối u bằng cách siêu âm đo kích thước khối u mỗi 6 tháng đến 1 năm/lần.
Theo dõi sự xuất hiện các triệu chứng liên quan đến biến chứng của u xơ như rong kinh, cường kinh qua khai thác bệnh sử và thăm khám 6 tháng đến 1 năm/lần.
U xơ tử cung là sự tăng trưởng bất thường của các tế bào cơ và mô xơ, từ đó tạo thành khối u trong tử cung
UXTC ở phụ nữ mãn kinh:
UXTC thường giảm kích thước đáng kể thậm chí biến mất ở phụ nữ mãn kinh. Vì vậy đối với chị em ở tuổi mãn kinh thì chúng ta cần theo dõi sát và lựa chọn phù hợp là biện pháp can thiệp khác bằng cách theo dõi sự phát triển về kích thước khối u, tính chất của khối u qua siêu âm mỗi 3 đến 6 tháng.
Nếu có biểu hiện rong kinh rong huyết kéo dài có chỉ định điều trị nội khoa bằng các thuốc có progesterone, vòng tránh thai Mirenna theo dõi các triệu chứng. Nếu điều trị nội khoa không có kết quả, các triệu chứng rong kinh, rong huyết vẫn kéo dài ảnh hưởng đến thể trạng của bệnh nhân mới cân nhắc đến can thiệp ngoại khoa.
Việc can thiệp ngoại khoa như dựa vào các yếu tố: về tuổi tác của bệnh nhân, kích thước khối u to hay nhỏ, tình trạng sinh sản. Đến lúc đó mới cân nhắc có nên mổ hay không nhằm mục đích đảm bảo chất lượng cuộc sống cho phụ nữ trong những năm tiếp theo. Đối với phụ nữ, tuổi thọ ngày càng tăng nên cân nhắc kỹ trước khi quyết định can thiệp ngoại khoa để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho bản thân.
Khi nào thì nên mổ
Chỉ định mổ khi các triệu chứng rong kinh, rong huyết kéo dài khối u chèn ép đã điều trị nội khoa không kết quả, ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân thì có chỉ định mổ. Nhưng điều này phải cân nhắc kỹ trước khi chỉ định mổ cho đúng, tránh tình trạng lạm dụng kỹ thuật mổ nội soi để chỉ định sai ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của phụ nữ - GS.TS Trần Thị Phương Mai cho hay.
May mắn ca mổ 2 trong 1 của sản phụ 48 tuổi sinh con lần đầu Trong thai kỳ, thai phụ có thể đối mặt nguy cơ mắc tiền sản giật với hậu quả rất lớn cho cả mẹ và bé. Tuy nhiên, hầu hết thai phụ chủ quan, chỉ kiểm tra tình trạng sức khỏe thai nhi mà quên sàng lọc sức khỏe của chính mình. Cơ thể bị phù nghĩ là bình thường, nào ngờ... Mới đây,...