Tỷ lệ nợ công lên đến 65% có đáng lo ngại?
Theo GS. Lê Văn Cường, Giám đốc nghiên cứu danh dự tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS), vay nợ để đầu tư, kích thích tăng trưởng kinh tế và đảm bảo khả năng trả nợ thì không đáng ngại. Chỉ đáng ngại khi vay nợ để tiêu dùng, không tạo dư địa tốt cho tăng trưởng dài hạn.
GS. Lê Văn Cường, Giám đốc nghiên cứu danh dự tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp.
Nợ công gần đây được “xới” lên với lý lẽ cho rằng, tính lại GDP sẽ nới “room” cho Việt Nam vay vợ và khiến nợ công tăng cao trong thời gian tới. Ông có bình luận gì về vấn đề này?
Chuyện quy mô GDP của Việt Nam tăng thêm 25,4% khi được tính lại, thì tỷ lệ nợ công/GDP bị sụt giảm từ mức 60-61%, xuống còn khoảng 48% – ngang ngửa với tỷ lệ của Trung Quốc, khiến nhiều người hoài nghi phải chăng tính lại GDP để tăng vay nợ. Vấn đề ở đây là, mức nợ công dù có chiếm 60-61% GDP cũng không phải là con số ghê gớm gì, bởi tỷ lệ nợ công/GDP ở mức 60-65% không hề quá sức với nền kinh tế Việt Nam.
Bản thân tôi không hiểu sao lại có ý kiến lo ngại nợ công tăng cao đến 65% hay cao hơn, trong khi Pháp, Bỉ có tỷ lệ nợ công/GDP là 100%, còn tỷ lệ này của EU xấp xỉ 90%. Tại Mỹ, tỷ lệ nợ công/GDP không đáng bàn vì họ thoải mái về vấn đề này. Còn với nền kinh tế “sát nách” chúng ta như Trung Quốc, thì tỷ lệ này cũng hơn 40%.
Nếu các đối tác quốc tế thấy kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, hoàn nợ được và trả lãi vay nước ngoài tốt thì khả năng cho vay vẫn rất cao. Đơn giản hơn, nếu một cá nhân đi vay và cam kết hoàn nợ rõ ràng trong bối cảnh cá nhân đó vẫn làm ăn tốt thì chuyện đi vay vốn và được duyệt vay vốn thêm là điều dễ hiểu.
Nhìn lại 5 năm qua, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam dao động trong khoảng 57-60% trước khi thay đổi cách tính GDP, vậy thì có gì phải lo. Tỷ lệ nợ công/GDP chỉ đáng lo ngại khi tăng nhảy vọt, ví dụ từ 20% lên 40-50%, còn với diễn biến tỷ lệ nợ công những năm qua tăng chậm đều là tương đối an toàn.
Ông vừa đề cập rằng tỷ lệ nợ công hiện nay tương đối an toàn, vậy cơ sở nào đưa ra đánh giá đó, thưa ông?
Video đang HOT
Tại châu Âu, họ ấn định quy tắc Maastricht với 3 chỉ tiêu: thâm hụt ngân sách không được quá 3,5% và tỷ lệ nợ công/GDP dưới 60%, lạm phát không quá 2,2%. Tuy nhiên, không riêng gì Pháp, nhiều quốc gia châu Âu khác đều có tỷ lệ nợ công/GDP vượt 60%, thậm chí đạt 100%.
Điều quan trọng ở đây là cần hiểu kỹ lưỡng về chỉ tiêu nợ công mà các nước châu Âu ấn định, bởi sau nhiều tranh cãi về các chỉ tiêu trên, các nước châu Âu đã thống nhất lấy bình quân các tỷ lệ thực tế những năm trước đó và thiếu cơ sở lý thuyết khoa học chứng minh.
Nếu ta lo ngại tỷ lệ nợ công của Việt Nam cao và dễ khủng hoảng nợ công như ở một số nước châu Âu, theo tôi đó là thứ lo ngại “vô duyên”, bởi tỷ lệ nợ công của Việt Nam cao là do nhu cầu trên thực tế cao. Nếu ta đi vay nợ để đầu tư vào hạ tầng, công nghệ cao, công nghệ mới, vào giáo dục – đào tạo thì đó là điều tốt, bởi nó giúp tăng Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) – một chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động, làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế. Còn nếu vay nợ để tiêu xài sẽ vô bổ và không tạo dư địa tốt cho tăng trưởng dài hạn.
Đối với các nước đang phát triển, rất cần các khoản vay và đi vay để kích thích tăng trưởng kinh tế. Điều quan trọng ở đây là dùng vốn vay đó phải đúng mục đích, đạt hiệu quả tốt và giúp ích cho tăng trưởng kinh tế.
Vậy đâu là kịch bản an toàn cho vấn đề nợ công của Việt Nam, thưa ông?
Nếu tỷ lệ nợ công hiện nay thậm chí tăng đến 65% hoặc hơn, mà tốc độ tăng nợ công chậm đều trong bối cảnh nền kinh tế vẫn tăng trưởng 6-7%/năm, dự trữ quốc gia vẫn tốt, thì không đáng lo ngại. Nhưng khi tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 4-5% thì cần xem xét lại khả năng trả nợ.
Nhìn ra thế giới ta thấy, các nước nghèo, hay những nước có vấn đề về kinh tế, tăng trưởng thấp thì tỷ lệ nợ công khá thấp. Đơn cử Algeria (tỷ lệ nợ công/GDP 19-20%), Bangladesh (tỷ lệ nợ công/GDP 28,1%). Câu hỏi đặt ra là, phải chăng những nước này có tỷ lệ nợ công/GDP thấp là do đối tác quốc tế không tin tưởng cho vay vì tăng trưởng GDP chưa tốt, hay vì lo ngại về khả năng trả nợ của họ.
Hiện nay, có nhiều ý kiến trái ngược nhau về quan hệ giữa tăng trưởng và nợ công. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, tỷ lệ nợ công tăng thì tốt cho tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng không ít ý kiến phản bác lại quan điểm này. Đến nay, chưa có kết luận khoa học rõ ràng về chuyện ảnh hưởng của nợ công đến tăng trưởng.
Tôi cùng các cộng sự Học viện Chính sách và Phát triển đang theo đuổi Dự án Phân tích kinh tế vĩ mô – các vấn đề nợ công và nợ tư nhân ở Việt Nam. Chúng tôi cho rằng, dùng nợ công để đầu tư vào phát triển công nghệ mới, vào vốn con người là tốt nhất – đây là đường hướng mà nhiều nước phát triển đã triển khai hiệu quả. Tại Pháp, thời Tổng thống Nicolas Sarkozy, vay nợ để đầu tư xây dựng các trường đào tạo và trung tâm nghiên cứu với những khoản vay lên tới 30 tỷ euro.
Còn về xử lý nợ công, nếu thấy nợ công cao thì phải tìm cách hạ xuống, mà đơn giản là hạn chế vay. Nếu thấy sử dụng nợ công vào chi tiêu vô bổ không đạt hiệu quả, ta phải cắt giảm các khoản chi tiêu đó, chưa kể các khoản thất thoát chi tiêu từ những công trình và dự án đắp chiếu, đội vốn. Hơn hết, nếu làm ăn không hiệu quả, không tăng trưởng tốt thì đừng đi vay, bởi nguyên tắc đi vay là phải trả vốn và lãi, nếu hiệu quả sử dụng vốn vay thấp hơn lãi phải trả, phải lập tức dừng việc vay nợ lại.
Lê Quân
Theo baodautu.vn
World Bank cảnh báo rủi ro từ thị trường nợ toàn cầu
Trong báo cáo mới nhất của mình về bối cảnh nền kinh tế thế giới trong năm 2020, Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã dành cả một chương để nói về rủi ro đến từ việc thị trường nợ đang được tích lũy nhanh chóng.
Theo báo cáo này, trong vòng 50 năm qua, đã có tới 4 làn sóng tích lũy nợ lớn trên toàn cầu, lần 1 vào 1970-1989, lần 2 diễn ra từ 1990-2001 và lần thứ 3 diễn ra từ 2002-2009. Lần thứ 4 hiện đang diễn ra đã bắt đầu từ năm 2010.
Theo số liệu của World Bank, tổng nợ tích lũy toàn cầu trong đợt tích lũy nợ này đã tăng lên mức cao mới, tương đương với 230% của GDP toàn cầu vào năm 2018.
Trong đó, tổng nợ tích lũy đến từ các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế phát triển cũng đã đạt đến mức cao nhất lịch sử - 170% GDP, tăng 54% so với thời điểm 2010.
Đây cũng là làn sóng tích lũy nợ có quy mô lớn nhất, tốc độ tích lũy lớn nhất và độ phủ rộng nhất trong 4 làn sóng tích lũy diễn ra trong 50 năm qua.
Làn sóng tích lũy nợ lần thứ 4 được cho là có nhiều điểm tương đồng với 3 lần trước. Thứ nhất, chúng đều bắt đầu trong thời kỳ lãi suất được duy trì ở mức thấp. Thứ hai, đây cũng là thời kỳ chứng kiến nhiều sự cải tiến về tài chính và sự thay đổi cấu trúc thị trường.
Hai điều này đã tạo điều kiện và khuyến khích việc vay nợ. Tuy nhiên, cả 3 làn sóng tích nợ trước đây đều kết thúc bằng cuộc khủng hoản tài chính quy mô lớn và thường trùng hợp với thời điểm nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại hoặc suy thoái. Do đó, World Bank tỏ ra lo ngại trước nguy cơ khủng hoảng thị trường nợ toàn cầu.
World Bank cho rằng việc lãi suất được duy trì ở mức thấp và được kỳ vọng sẽ tiếp tục được giữ ở mức thấp về trung hạn sẽ giúp giảm thiểu một phần những rủi ro liên quan đến việc nợ tích lũy đang dần tăng lên.
Tuy nhiên, điều này là không đủ để có thể ngăn chặn khủng hoảng có thể xảy ra, và trong trường hợp điều này xảy ra thì các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ chịu tác động tiêu cực nhất do nợ tích lũy tại các nền kinh tế này đang ở mức rất cao.
World Bank đưa ra 4 khuyến nghị chính để có thể giảm thiểu rủi ro khủng hoảng nợ xảy ra và giảm thiểu tác động (nếu điều xảy ra).
Thứ nhất, các quốc gia phải duy trì hệ thống quản lý nợ hợp lý và minh bạch. Thứ hai, cần phải có khung chính sách tiền tệ, tài khóa và tỷ giá hối đoái tốt để có thể tăng tính chịu đựng của nền kinh tế trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang trở nên mong manh. Thứ ba, thiết lập hệ thống kiểm soát và giám sát thị trường tài chính thật chặt chẽ để có thể sớm nhận diện và có thành động kịp thời xử lý rủi ro. Cuối cùng, cần phải có chính hệ thống quản lý tài chính công hiệu quả và có những chính sách để khuyến khích quản trị doanh nghiệp tốt nhằm sử dụng vốn vay nợ một cách hiệu quả.
Ngân Giang
Theo vietnamnet.vn
Chủ động quản lý, cơ cấu lại nợ công, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia Theo Báo cáo về công tác điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2019, triển khai nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2020 của Bộ Tài chính, năm 2019 Bộ Tài chính đã tiếp tục cơ cấu một bước nợ công, giảm chi phí nợ công. Nhờ đó, nợ công giảm...