Tùy tiện dùng tâm sen làm thuốc: con dao 2 lưỡi
Tâm sen nếu không sao đúng sẽ có độc tố. Độc tố này làm hủy hoại tế bào óc, thận và tim.
Sen là loại cây rất quen thuộc với người Việt chúng ta. Hoa sen dân dã nhưng cũng đẹp một cách kiêu kỳ, sang trọng. Lá sen thơm mát, một hương thơm kỳ diệu khó tả thành lời.
Có nhiều giống sen được trồng, với màu hoa dao động từ màu trắng như tuyết tới màu vàng hay hồng nhạt. Nó có thể chịu được rét tới khu vực 5 theo phân loại của Mỹ. Loài cây này có thể trồng bằng hạt hay thân rễ.
Hoa, các hạt, lá non và thân rễ sen ăn được. Tại châu Á, các cánh hoa đôi khi được sử dụng để tô điểm món ăn, trong khi các lá to được dùng để gói thức ăn. Thân rễ (ngó sen) có thể dùng chế biến nhiều món ăn (súp, canh, món xào) và là phần được dùng nhiều nhất.
Các cánh hoa, lá non và thân rễ có thể ăn sống, mặc dù cần quan tâm tới việc truyền các loại ký sinh trùng sang người (chẳng hạn sán lá Fasciolopsis buski).
Các nhị hoa có thể phơi khô và dùng để ướp chè. Các hạt nhỏ lấy ra từ bát sen có nhiều công dụng và có thể ăn tươi (khi non) hoặc sấy khô và cho nổ tương tự như bỏng ngô.
Hạt sen già cũng có thể luộc cho đến khi mềm và được dùng trong các món như chè sen hay làm mứt sen. Lá sen có đặc điểm không thấm nước. Hiện tượng này được ứng dụng trong khoa học vật liệu, gọi là hiệu ứng lá sen, để chế tạo các bề mặt tự làm sạch.
Trong lĩnh vực thảo dược học, có lẽ ít loài cây nào mà hầu như tất cả các bộ phận đều là những vị thuốc quý như cây sen gồm hạt, lá, hoa, tâm sen, tua sen, gương sen, ngó sen… Dưới đây xin chỉ nói đến tâm sen- vị thuốc hay.
Video đang HOT
Tâm sen là tim của hạt sen còn gọi là Liên tử tâm. Tên khoa học Embryo Nelumbinis. Tên vị thuốc là Liên tâm. Bộ phận dùng làm thuốc là Tâm của hạt sen. Tâm sen nằm trong các hạt sen cũng được sử dụng trong y học truyền thống châu Á như là một loại thuốc có tác dụng an thần và thanh nhiệt.
Thành phần hóa học: Tâm sen có chứa Alcaloid, flavonoid, acid amin.
Các kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy tim sen (mầm) nằm giữa hạt sen có vị đắng tính hàn, tác dụng thanh tâm khử phiền, chỉ huyết sáp tinh. Dùng làm thuốc được ghi trong sách “Thực tính bản thảo” (đời cuối nhà Đường).
Trên súc vật thực nghiệm, Liên tâm có tác dụng giãn mạch ngoại vi, hạ áp. Trên lâm sàng, dùng trị chứng sốt cao mê man, chảy máu cam, phối hợp với Sinh địa, Mao căn, Tê giác để lương huyết chỉ huyết, dùng trị chứng thận hư hoạt tinh, di tinh phối hợp với Tang phiêu tiêu, Sa uyển tử, Kim anh tử. Liều thường dùng: 1,5 – 3g sắc uống.
Tính vị quy kinh theo đông y tâm sen có vị đắng, tính hàn, vào kinh tâm. Công năng thanh tâm hỏa, trấn kinh, an thần, gây ngủ, bình can hạ áp. Chủ trị của liên tâm là tác dụng thanh nhiệt, dùng đối với bệnh ôn nhiệt tà nhiệt, khi tâm phiền bất an, mất ngủ, cao huyết áp. Liều dùng, cách dùng dược liệu: Ngày dùng 4 – 10g dạng thuốc sắc.
Đông y dùng tâm sen chữa sốt và khát nước, di mộng tinh, tim đập nhanh, tăng huyết áp, hồi hộp, hoảng hốt, mất ngủ, mỗi ngày dùng 1 – 3g.
Tuy vậy trong tim sen lại có chứa độc tính vì vậy muốn sử dụng làm thuốc trước tiên phải khử độc có trong nó rồi mới dùng vào thang thuốc, có nghĩa là người ta phải sao tâm sen, nếu không sao sẽ không khử được độc tố có trong tim sen.
Do đó khi tim sen phối hợp với lạc tiên thì kết quả lại tăng cao nhưng chỉ nên dùng với người lớn không nên sử dụng cho trẻ. Bởi vì tim sen có độc tính, mặt khác ngay cả người lớn khi dùng tâm sen có vị đắng, tính lạnh nên những người thực nhiệt uống vào thì hạ hỏa, trong người sảng khoái, ngủ được.
Ngược lại, trường hợp người hư nhiệt uống vào cũng ngủ được nhưng về lâu dài sẽ bị mệt mỏi, mất trí nhớ, tim đập thất thường. Nếu sử dụng tâm sen lâu dài có thể ảnh hưởng đến chức năng sinh lý là làm giảm ham muốn tình dục. Do hàm lượng alkaloid cao nên tâm sen cho tác động dược lực mạnh và ảnh hưởng trên tim, do đó cần chú ý liều dùng và không nên dùng lâu dài.
Những người bị âm hư (không nên dùng) uống vào cũng ngủ được, nhưng ít lâu sau sẽ bị mệt mỏi, mất trí nhớ, tim đập thất thường, tắc tĩnh động mạch. Nam thì bất lực sinh lý (Dysfonction Érectille), nữ thì kinh nguyệt xáo trộn. Ngoài ra tim sen nếu không sao đúng sẽ có độc tố. Độc tố này làm hủy hoại tế bào óc, thận và tim.
Còn việc dùng tim sen sao vàng nghĩa là sao để không còn màu xanh và không cháy đen (sao tồn tính) hoặc không sao thì như người ta dùng dao 2 lưỡi (bởi không sao sẽ không khử độc tố trong có trong tim sen).
Y học cổ truyền cũng như dân gian có những món ăn bài thuốc chữa mất ngủ rất đơn giản, không độc, dễ làm như ăn canh bí đỏ khoai lang, chè hạt sen long nhãn, lá vông nem hoặc lá dâu tằm non xào với trứng, nước sắc dây nhãn lồng, mắc cỡ cũng giúp giảm các chứng mất ngủ, tim hồi hộp, suy nhược thần kinh, lo âu, căng thẳng do lao tâm lao lực làm việc quá sức, suy nhược cơ thể.
Dưới đây là một số phương thuốc trị bệnh từ tâm sen.
* Thanh tâm trừ phiền, chỉ huyết sáp tinh, dùng để an thần, trị sốt cao mê sảng, hồi hộp tim đập nhanh, huyết áp cao gồm tâm sen, cúc hoa, hoa hòe, hạt muồng, mỗi thứ đều có lượng bằng nhau cho vào trộn đều, mỗi lần lấy 1,5 – 3g cho vào hãm trà uống trong ngày.
* Trị huyết áp cao, hay mờ mắt, đầu ong ong khó chịu: Tâm sen 4g, hòe hoa 10g, cúc hoa 8g. Ba vị sao vàng, pha như pha trà uống hàng ngày.
Theo VNE
Cảnh giác khi tùy tiện dùng thuốc nhỏ tai
Liên tục gần đây Bệnh viện Tai mũi họng trung ương tiếp nhận không ít trường hợp điếc tai trong do dùng thuốc nhỏ không đúng chỉ định.
Hiện thị trường có bán rất nhiều thuốc nhỏ tai chứa kháng sinh dòng aminoside (như polidexa, néodexa...) là thuốc chỉ được dùng trong trường hợp viêm ống tai ngoài và màng nhĩ kín. Nếu dùng khi màng nhĩ bị thủng, thuốc sẽ qua lỗ thủng vào tai giữa tác động trực tiếp tới các tế bào thính giác ở tai trong.
Theo Phó giáo sư Lương Hồng Châu, Phó giám đốc Bệnh viện Tai mũi họng trung ương, thuốc là con dao hai lưỡi, bên cạnh tác dụng chữa bệnh còn có tác dụng phụ, tác dụng không mong muốn. Các nhà khoa học đã chứng minh có những loại thuốc rất độc với tế bào thính giác như kháng sinh họ aminoglycosides (gentamicine, néomycine, amikacine...). Nhiễm độc dòng kháng sinh này không chỉ gặp khi dùng thuốc đường toàn thân (tiêm, truyền) mà còn có thể xảy ra khi dùng thuốc tại chỗ (nhỏ vào tai khi màng nhĩ thủng). Một số thuốc nhỏ tai có chứa loại kháng sinh này. Một số thuốc lợi tiểu như furosémide, acide étacrynique...; thuốc điều trị ung thư dòng cisplatine; các dẫn xuất của quinine, acide acétylsalicylique... cũng có nguy cơ tương tự.
Ảnh: SGTT.
Khi ngấm vào tai trong, các thuốc trên sẽ phá huỷ tế bào nghe dẫn tới điếc, người ta còn gọi là hiện tượng nhiễm độc tai. Mức độ tổn thương của tai trong phụ thuộc vào loại thuốc, liều lượng, thời gian sử dụng và phản ứng của từng cá thể. Nguy cơ điếc do nhiễm độc thuốc có thể xuất hiện ngay khi bắt đầu sử dụng thuốc cho tới khi dừng quá trình điều trị 2-6 tuần.
Khởi đầu bệnh nhân thường ù tai và cảm thấy chóng mặt, sau đó xuất hiện nghe kém. Một số trường hợp xuất hiện nghe kém đồng thời với ù tai. Người bệnh thường than phiền có tiếng ù trong tai với âm cao như ve kêu, gió rít... Cảm giác chóng mặt đôi khi không xuất hiện hoặc chỉ chuếnh choáng, nhưng cũng có trường hợp chóng mặt quay dữ dội. Nghe kém cũng ở nhiều mức độ, đôi khi người bệnh chỉ thấy ù tai mà không cảm thấy nghe kém, cá biệt có trường hợp điếc trắng cả hai tai.
Sự nhiễm độc này thường xảy ra ở cả hai tai một cách cân xứng, tuy nhiên trường hợp nhiễm độc do dùng thuốc nhỏ tai thì tổn thương sức nghe chỉ xảy ra ở bên có nhỏ thuốc. Thăm khám tai mũi họng thường không phát hiện tổn thương ở tai ngoài, màng nhĩ cũng như tai giữa. Chỉ khi đo thính lực đơn âm ta mới thấy ngưỡng nghe bị giảm.
Nghe kém do nhiễm độc thuốc nhỏ tai có thể xảy ra ngay sau khi dùng thuốc, nhưng một số trường hợp ù tai và nghe kém xuất hiện sau khi đã ngừng nhỏ thuốc vài tuần. Ở trẻ nhỏ, nhiễm độc tai trong do thuốc thường được phát hiện muộn. Nghe kém nhiều gây ảnh hưởng đến phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Những tổn thương mà các thuốc gây ra cho tế bào nghe khó có khả năng hồi phục. Cho đến nay việc điều trị điếc do nguyên nhân này vẫn là câu hỏi khó với y học. Khi biểu hiện nhiễm độc thuốc với tai trong xuất hiện, người bệnh nên báo cho bác sĩ biết. Bác sĩ sẽ cân nhắc giữa lợi và hại để quyết định tiếp tục liệu trình điều trị hay dừng lại. Nhưng việc ngừng điều trị cũng không đảm bảo được quá trình nhiễm độc tai trong sẽ dừng lại hay tiếp diễn một thời gian nữa (có thể tới sáu tuần sau khi ngừng thuốc).
Nếu nghe kém nhiều, ảnh hưởng tới giao tiếp thì nên dùng máy trợ thính. Một số trường hợp điếc nặng và sâu cả hai tai mà máy trợ thính không có tác dụng thì còn một giải pháp nữa là phẫu thuật cấy điện cực ốc tai. Nhưng phẫu thuật này giá rất cao và sau phẫu thuật để hiểu được lời nói người bệnh phải theo những khoá huấn luyện đặc biệt, kéo dài hàng năm. Chính vì phương pháp điều trị này công phu, giá cao và kéo dài nên không phải người bệnh nào cũng có khả năng thực hiện.
Trên thực tế điều trị, các bác sĩ cũng luôn cân nhắc giữa mặt lợi và hại của thuốc trên từng trường hợp cụ thể, nhưng đôi khi vẫn phải chấp nhận sử dụng vì sự an toàn tính mạng của người bệnh. Về phía người bệnh, khi có các bệnh về tai nên sớm đến bác sĩ để được chẩn đoán và chỉ định điều trị đúng đắn, thận trọng khi dùng thuốc, bỏ thói quen tuỳ tiện dùng thuốc mà không hỏi ý kiến thầy thuốc.
Theo VNE
Công dụng kỳ diệu của nghệ vàng Nghệ không chỉ làm gia vị để tạo màu cho món ăn mà đặc biệt nghệ còn dùng để làm thuốc, có nhiều loại nghệ nhưng công dụng nhất là loại nghệ vàng. Nghệ có tên curcuma longa Linn thuộc họ gừng, thân rễ nghệ vàng chứa tinh dầu, ngoài ra còn có chất curcumin... Theo y học cổ truyện, nghệ vàng được...