Tướng Mỹ ngán nhất chiến thuật nào của QĐND Việt Nam?
Đán.h điểm và phục kích diệt viện binh là chiến thuật đã được QĐND Việt Nam sử dụng từ thời đán.h Pháp và sang thời đán.h Mỹ nó tiếp tục là ngón đòn sở trường của ta khiến đối phương ngao ngán.
Chiến thuật khiến kẻ địch ngán ngẩm
Do đặc điểm của cả quân Pháp và quân Mỹ đều là những đội quân xâm lược cho nên chúng luôn phải giải quyết vấn đề mâu thuẫn giữa tập trung lực lượng để hành quân càn quét và chia nhỏ lực lượng để chiếm đất đai. Nguyên tắc của quân sự là tập trung lực lượng nhưng đối mặt với thế trận chiến tranh nhân dân của Việt Nam, kẻ địch mà tập trung quân chủ lực để càn quét chỗ này thì chỗ khác lực lượng lại mỏng tạo điều
kiện cho du kích phát triển. Nhưng nếu phân tán lực lượng ra nhiều nơi để đóng giữ thì không có lực lượng lớn để chiến đấu chống lại các đội quân chủ lực của ta.
Chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam trong một cuộc diễn tập
Điều đó là một mâu thuẫn thường trực của các đội quân xâm lược. Tướng Westmoreland – từng làm Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam trong sách Tường trình của một quân nhân đã phải thừa nhận: “Một khó khăn cơ bản là ở chỗ quân đội Việt Nam thiếu quân số để có mặt khắp mọi nơi ngay tức khắc. Nếu các đơn vị quân đội Nam Việt Nam đi tìm hoặc đán.h đuổi các đơn vị lớn của địch thì quân du kích địa phương lại có thể nổ vào và giành lại quyền kiểm soát trước một đám dân vệ được trang bị
tồi, được chỉ huy kém và không có cơ động chiến đấu cao. Thế nhưng nếu không đán.h bại các đơn vị lớn thì không thể co an ninh. Đúng như lời Lewis Carrolls Red Queen đã nói, các bạn cần phải chạy liên miên để ở lại một chỗ”.
Thực chất, đoạn nói trên của Westmoreland cũng chưa nhìn vào sự thực lắm bởi vì đến những năm 1966, 1967, Mỹ có đến hơn nửa triệu quân và quân đội Việt Nam Cộng hòa được xây dựng lên gần 1 triệu nhưng mâu thuẫn &’thiếu quân số để có mặt khắp mọi nơi’ vẫn cứ diễn ra. Chính Westmoreland cũng vẫn xin thêm quân từ Mỹ trước khi chiến dịch Tết Mậu Thân diễn ra.
Tướng Westmoreland.
Trở lại câu chuyện chiến thuật vây điểm diệt viện. Westmoreland đã buộc phải thừa nhận rằng đây là điểm mạnh của quân đội ta. Viên tướng này viết: “Phục kích là chỗ mạnh của Việt cộng (Cách người Mỹ gọi binh sỹ Việt Nam thời chiến tranh) và là chỗ yếu của quân đội Nam Việt Nam. Bằng phục kích, trong nhiều dịp Việt cộng đã tiê.u diệ.t nhiều đại đội của quân đội Nam Việt Nam. Mặc dù lực lượng máy bay lên thẳng của Mỹ đã tăng lên tới mức ở mỗi sư đoàn quân đội Nam Việt Nam có một đại đội máy bay
thuộc lục quân Mỹ hoặc một phi đoàn thuộc lính thủy đán.h bộ Mỹ, phần lớn sự di chuyển của quân đội Nam Việt Nam vẫn phải dùng đường bộ. Một chiến thuật thông thường của Việt cộng là đán.h vào một tiề.n đồn của quân đội Nam Việt Nam rồi nằm chờ lực lượng dự bị của quân Nam Việt Nam hành quân đường bộ đến cứu tiề.n đồn đó”.
Từ chỗ nhìn nhận về chiến thuật của quân ta như vậy, Westmoreland đã đề ra các biện pháp phản ứng, thậm chí còn viết những cẩm nang mà ông ta gọi là các “thẻ nhỏ bỏ túi” để làm thất bại chiến thuật của ta. Cách làm của ông ta là thúc giục các chỉ huy quân sự phải tuần tra trước rồi mới chuyển quân nhằm phát hiện các ổ phục kích ở một địa điểm cố định. Viên tướng Mỹ quan niệm: “Vì địch ở yên một chỗ nên chúng có thể bị đán.h thọc sườn và bị tiê.u diệ.t”.
Tuy nhiên, kế sách của Westmoreland cũng chẳng mang lại bao nhiêu tác dụng khi quân đội ta vẫn tiếp tục sử dụng chiến thuật này và giành được những thắng lợi. Đáng nói, chiến thuật này không chỉ giành thắng lợi trước quân Việt Nam Cộng hòa mà ngay cả chính quân Mỹ cũng phải bó tay.
Video đang HOT
Trận Ia-Drang, quân Mỹ nếm mùi &’phục kích’
Ngay trong cuối năm 1965, ở thung lũng Ia-drang, nơi quân Mỹ và quân chủ lực của ta đụng độ lớn trận đầu tiên, bộ binh Mỹ đã &’nếm mùi’ chiến thuật vây điểm diệt viện mà Westmoreland tưởng chừng đã &’thuộc lòng’.
Để mở màn chiến dịch, Trung đoàn 33 của quân ta vây đồn Plei Me nằm gần đường số 19B nối Đức Cơ với thị xã Pleiku và đường 14 nối Phú Nhơn với Buôn Ma Thuột. Ta dự kiến chiến dịch diễn ra trong 3 đợt. Đợt 1 là vây đồn và diệt quân VNCH cứu viện. Đợt 2 tiếp tục vây đồn để buộc quân Mỹ tham chiến. Đợt 3 tập trung lực lượng diệt một cánh quân Mỹ và kết thúc chiến dịch.
Tranh mô tả lính Mỹ thảm hại trong trận Ia-Drang.
Ngày 23/10, một chiến đoàn VNCH từ Phú Mỹ hành quân lên Pleime để giải cứu rơi vào ổ phục kích của quân ta. Trận đán.h đã diễn ra từ lúc 16h30 đến 18h cùng ngày. Theo Wikipedia, Quân đội Nhân dân Việt Nam ghi nhận đã diệt 59 xe tăng, xe bọc thép và 800 quân đối phương; thu được 2 pháo và 6 xe đạn, 40 sún.g các loại.
Sau trận này, Trung đoàn 33 lui về thung lũng Ia-Drang cách đó 10km về phía Tây để phòng thủ còn quân Mỹ bắt đầu cho máy bay oanh tạc các khu vực để tìm diệt quân ta.
Mỹ bắt đầu đổ quân xuống bờ nam sông Ia-Drang. Cho đến ngày 11/11, trực thăng Mỹ đã hoàn thành việc đổ Lữ đoàn 3 không kỵ xuống.
Ngày 14/11, một Tiểu đoàn của Lữ đoàn 3 đổ bộ xuống bãi đáp X-ray chỉ cách Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 66 QĐNDVN khoảng 200m. Mặc dù lúc đó các cán bộ của đơn vị đi vắng nhưng Tiểu đoàn 9 đã tự tổ chức chiến đấu. Sau đó Tiểu đoàn trưởng chạy về nắm được 1 đại đội và một khẩu sún.g cối tiếp tục đán.h vào quân Mỹ.
Quân Mỹ bị đán.h liê.n tụ.c. Một Trung đội bị vây chặt ở bãi đáp, viên trung đội trưởng tử trận. Đến 17h chiều, khi quân Mỹ gọi phi pháo yểm trợ, quân đội ta chủ động rút khỏi trận địa với kết quả là diệt khoảng 150 lính Mỹ và bắ.n rơi 1 máy bay chiến đấu.
Một bức tranh khác vẽ về trận đán.h ở thung lũng Ia-Drang, nơi quân Mỹ chịu thiệt hại nặng nề.
Lúc 5h30 sáng 15/11, Tiểu đoàn 7 của Trung đoàn 66 lại bất ngờ tấ.n côn.g tiểu đoàn 1/7. Sau loạt cối 82mm, chiến sĩ ta xông vào đột kích và đán.h giáp lá cà với địch. Mỹ cho máy bay né.m bo.m trợ chiến nhưng lúc này đội hình xen kẽ nên bom napalm của họ cũng khiến chính quân Mỹ mất thêm 24 người và bị thương 20 người. Đêm 15 rạng sáng 16, Tiểu đoàn 7 tổ chức tập kích một lần nữa nhưng lần này quân Mỹ đã bố phòng kỹ nên trận tập kích không gây được nhiều thiệt hại cho địch.
Trận đán.h lớn tiếp tục diễn ra vào ngày 17/11 khi Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 66 được tung vào trận. Sáng 17, Tiểu đoàn 2/7 của Lữ đoàn 3 Mỹ phát hiện ra vị trí của Tiểu đoàn 8 ở bờ sông Ia-Drang và tổ chức tấ.n côn.g lúc đơn vị này đang nghỉ trưa nhưng họ lại bị rơi vào phục kích.
Nguyên nhân là Tiểu đoàn 8 hành quân về sở chỉ huy Trung đoàn theo đội hình sẵn sàng tao ngộ chiến (đán.h khi tình cờ gặp địch trên đường hành quân). Đến ngã ba đường làng Tung và làng Sinh thì Tiểu đoàn trưởng cho dừng lại triển khai đội hình chiến đấu.
Tiểu đoàn tổ chức 2 thê đội: Thê đội 1 gồm Đại đội 6 (thiếu 1 trung đội). Thê đội 2 gồm Đại đội 7 và Trung đội còn lại của Đại đội 6. Chính Đại đội 6 đã phát hiện ra quân Mỹ đang đi về hướng Tiểu đoàn 8. Khi quân Mỹ còn cách khoảng 40 đến 50m, Đại đội trưởng ra lệnh cho sún.g đại liên bắ.n. Các Trung đội cũng bắ.n mạnh và bắt đầu xung phong.
Chiến sĩ Tiểu đoàn 8 dúng sún.g máy tấ.n côn.g bên sườn đội hình đối phương rồi đột ngột đổi hướng đán.h thẳng vào chúng, thực hiện chiến thuật chia cắt và đán.h mặt đối mặt. Chiến thuật này khiến vũ khí nặng của quân Mỹ không yểm trợ được bộ binh vì sợ bắ.n thì thương vong cả quân mình. Trong khi đó, quân ta chiếm được các vị trí cao hơn nên dễ dàng phát hỏa vào đội hình địch đang di chuyển.
Kết quả quân đội Mỹ bị thiệt hại nặng, Đại đội A bị mất 50 người còn Đại đội C mất 20 người trong những phút đầu. Mọi việc còn tồi tệ hơn khi Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 33 QĐND Việt Nam đến và tấ.n côn.g Tiểu đoàn 2/7 Mỹ từ phía sau lưng. Lữ đoàn 3 của Mỹ buộc phải điều nốt Tiểu đoàn 2/5 tới trận địa để yểm trợ cho Tiểu đoàn 2/7 rút lui. Đến 8h tối ngày 18/11, trận chiến ở thung lũng Ia-Drang kết thúc khi quân đội Mỹ rút khỏi nơi đây và chịu thiệt hại nặng nề. 155 lính thiệ.t mạn.g và 121 người
bị thương, tức là thương vong chiếm 2/3 lực lượng.
Theo hồi ký Chiến trường mới của tướng Nguyễn Hữu An – người chỉ huy trận Ia-Drang năm xưa: “Kết quả cuối cùng ta đã giành được thắng lợi to lớn vượt xa dự kiến ban đầu, khoảng 1200 tên Mỹ bị thương vong, ta tiê.u diệ.t Tiểu đoàn 1 và 2 của Lữ đoàn 3 kỵ binh bay, tiêu hao nặng Tiểu đoàn 3 và một số đại đội, bắ.n rơi 26 máy bay và thu nhiều sún.g đạn”.
Theo Wikipedia, ông Bộ trưởng Quốc phòng Israel khi đó đang ở thăm Việt Nam Cộng hòa đã đến quan sát chiến trường Pleime và trở về nói rằng: “Quân đội Mỹ ở Việt Nam đã có đủ những vũ khí và phương tiện mà những người chỉ huy quân sự các nước khác chỉ thấy trong mơ. Thế mà, mỗi khi đối phương tiếp nhận giao chiến là trên 90% các trận đán.h, quyền chủ động thuộc về họ”.
Theo Người Đưa Tin
Trung Quốc dồn dập đong đếm Việt Nam nhận Su-30MK2
Sau khi 2 chiếc tiêm kích Su30MK2 mới nhất đưa về Đà Nẵng ngày 6/12/2014, truyền thông Trung Quốc đã dồn dập đưa tin về sự kiện này.
Độc lập tác chiến, thọc sâu
Theo truyền thông tiếng Trung ngày 14/12, mặc dù Việt Nam không chính thức tiến hành giải thích cụ thể, nói rõ về hợp đồng mua 12 máy bay Su-30MK2 mới, nhưng điều có thể khẳng định là, Việt Nam không ngừng tăng cường xây dựng sức mạnh quân sự có mục đích là để có thể tăng thêm sức mạnh đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông.
Máy bay chiến đấu Su-30 là một loại máy bay chiến đấu né.m bo.m hạng nặng đa năng được nghiên cứu chế tạo để đối phó với máy bay chiến đấu F-15 Mỹ, có năng lực bay liên tục siêu thấp, năng lực phòng thủ rất mạnh và tính năng tàng hình xuất sắc.
Khi thiếu thông tin của hệ thống chỉ huy mặt đất vẫn có thể độc lập hoàn thành nhiệm vụ tấ.n côn.g và tiê.u diệ.t, trong đó bao gồm thực hiện nhiệm vụ chiến đấu thọc sâu. Hiện nay, loại máy bay này chủ yếu trang bị cho Không quân Trung Quốc, Không quân Việt Nam và Không quân Ấn Độ.
Su-30MK2 Việt Nam trên truyền thông Trung Quốc
Vì sao Ấn Độ hỗ trợ huấn luyện phi công?
Trong khi đó, tờ Tin tức Tham khảo Trung Quốc ngày 18/12 dẫn nguồn từ Đài tiếng nói nước Nga ngày 17/12 đưa tin, trong các giai đoạn khác nhau, máy bay của Không quân Việt Nam thuộc máy bay các giai đoạn khác nhau của Liên Xô va Nga. Nổi tiếng nhất là máy bay tiêm kích MiG. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Không quân Việt Nam đã sử dụng chúng, tiê.u diệ.t được 350 máy bay Mỹ.
Hiện nay, Không quân Việt Nam chủ yếu sử dụng máy bay chiến đấu Su-30MK2 của Nga. Căn cứ vào 2 hợp đồng đã thực hiện, Quân đội Việt Nam đã nhận được 20 máy bay loại này. Lô 12 chiếc đầu tiên của hợp đồng thứ ba cũng đã được vận chuyển đến Việt Nam.
Trong các thời kỳ khác nhau có nhiệm vụ khác nhau. Theo đó cần có công nghệ khác nhau - Giám đốc Korotchenko, Trung tâm phân tích thương mại vũ khí thế giới Moscow bình luận. Máy bay Su và máy bay MiG có tính năng kỹ thuật khác nhau. Máy bay MiG là máy bay tiêm kích tiề.n tuyến hạng nhẹ, trong khi đó máy bay Su là máy bay tiêm kích hạng nặng.
Tiêm kích Su-30 có uy lực tên lửa-ném bom mạnh, bán kính tác chiến rất lớn. Ngoài vũ khí thông thường, nó mang theo tên lửa chống hạm, có thể hoàn thành hành động quân sự đối với các mục tiêu trên biển.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với khu vực tồn tại tranh chấp lãnh thổ đảo va khu vực thềm lục địa. Rất rõ ràng, Việt Nam đã chọn lựa máy bay Su là do những máy bay này có thể giúp họ giải quyết vấn đề bảo vệ lợi ích dân tộc.
Su-30MK2 là máy bay tiêm kích đa năng, đứng vào hàng ngũ loại máy bay tốt nhất thế giới, hơn nữa có một số tính năng vượt trội so với các loại khác.
Tổ lái của mỗi máy bay tiêm kích gồm 2 người. Vì vậy, 32 máy bay cung cấp theo 3 hợp đồng cần khoảng 100 phi công. Chính phủ Việt Nam đề nghị Ấn Độ giúp đỡ đào tạo phi công và vừa nhận được đồng ý.
Chuyên gia Nga giải thích cho rằng, thứ nhất, Việt Nam và Ấn Độ gần nhau. Điều kiện khí hậu bay của phi công Việt Nam va Ấn Độ giống nhau hơn nhiều so với điều kiện của Nga. Ngoài ra, Ấn Độ đã có rất nhiều máy bay tiêm kích Su Nga, 4 năm tới họ sẽ có tới 272 chiếc. Các phi công Ấn Độ nắm rất chắc chúng.
Ngoai ra Korotchenko còn cho rằng: Còn phải xét tới quan hệ phức tạp giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Ấn Độ hỗ trợ Việt Nam tăng cường tiềm lực quân sự, cũng giải quyết được vấn đề tăng cường an ninh của dân tộc mình.
Theo bài báo, Ấn Độ và Việt Nam còn đang thảo luận khả năng cung cấp cho Việt Nam tên lửa BrahMos - loại tên lửa do Ấn Độ và Nga hợp tác sản xuất. Tốc độ của loại tên lửa này sẽ gần gấp 3 tên lửa siêu âm Harpoon Mỹ. BrahMos còn có phiên bản trang bị cho máy bay.
Đếm số lượng 8 năm
Tờ Phượng Hoàng Hồng Kông ngày 18/12 cũng dẫn báo Nga đưa tin, năm 2013, Quân đội Việt Nam đã bí mật đặt mua 12 máy bay tiêm kích Su-30MK2 của Nga, 2 chiếc chế tạo gần nhất vào ngày 6 tháng 12 đã bí mật vận chuyển đến cảng Đà Nẵng, Việt Nam, 2 chiếc máy bay này có năng lực tác chiến đột phá phòng không trên biển.
Máy bay chiến đấu Su-30MK2 có năng lực đột phá phòng không tốc độ siêu cao và tấ.n côn.g lướt biển ở tầng trời siêu thấp.
Ngoài ra, 2 chiếc máy bay chiến đấu Su-30 vào cuối năm cũng sẽ bàn giao cho Quân đội Việt Nam.
Theo thông tin mới nhất cho biết, trong vòng 8 năm qua, Quân đội Việt Nam đã nhập khẩu 24 máy bay chiến đấu Su-30MK2 của Nga, triển khai trọng điểm ở tuyến 1 của Biển Đông, tờ Phượng Hoàng cho biết.
Việt Nam thuần phục xe thiết giáp M113 thế nào?
Theo_Báo Đất Việt
Những quân binh chủng oai hùng của Quân đội Việt Nam Một đội quân đáng gờm phải thỏa mãn những yếu tố sau: Bản lĩnh, ý chí chiến đấu cao; kinh nghiệm trận mạc dày dạn; lợi thế tác chiến... Tổ chức Global Firepower (GFP) đã xếp trong 25 quốc gia có quân đội mạnh nhất thế giới thì quân đội Việt Nam đứng thứ 23. Tại khu vực ĐNA, Việt Nam xếp sau...