Từ 1-4, trẻ đủ 15 tuổi được sử dụng thẻ tín dụng
Đây là một trong những nội dung mới được đề cập tại Thông tư 28/2019/TT-NHNN do Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 28/2019/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 19/2016/TT-NHNN về hoạt động thẻ ngân hàng.
Thông tư 28/2019/TT-NHNN sẽ có hiệu lực từ ngày 1/4/2020 tới đây.
Trẻ đủ 15 tuổi sẽ được sử dụng thẻ tín dụng phụ. (Ảnh minh họa)
Theo đó, một số quy định liên quan đến đối tượng sử dụng thẻ ngân hàng (chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ) có những sửa đổi, bổ sung như sau:
Đối với chủ thẻ chính là tổ chức:
Tổ chức đủ điều kiện mở tài khoản thanh toán được sử dụng thẻ ghi nợ.
Video đang HOT
Tổ chức là pháp nhân được thành lập và hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam được sử dụng thẻ tín dụng, thẻ trả trước.
Chủ thẻ là tổ chức được ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân sử dụng thẻ của tổ chức đó hoặc cho phép cá nhân sử dụng thẻ phụ theo quy định.
Đối với chủ thẻ phụ là người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước. Không còn yêu cầu phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật.
HOÀNG MAI
Theo Người đưa tin
Thanh toán không dùng tiền mặt: Lo ngại "hàng rào kĩ thuật" cản trở hoạt động doanh nghiệp
Một số quy định trong Dự thảo Nghị định quy định về thanh toán không dùng tiền mặt đang gây lo ngại cho các doanh nghiệp vì sẽ tác động bất lợi tới hoạt động của doanh nghiệp.
Ảnh minh họa
Tại sao chỉ được quan hệ đại lý thanh toán với 1 đơn vị?
Về nguyên tắc thực hiện hoạt động đại lý thanh toán quy định tại khoản 3 Điều 22 Dự thảo nêu: "Bên đại lý thanh toán không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được đồng thời làm đại lý thanh toán cho bên giao đại lý khác nếu không được chấp thuận bằng văn bản của bên giao đại lý mà mình đang làm đại lý thanh toán. Bên đại lý thanh toán không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép giao đại lý cho bên thứ ba".
Nhiều ý kiến của doanh nghiệp và các chuyên gia pháp luật đưa ra băn khoăn về vấn đề này: Không rõ mục tiêu của quy định hạn chế quyền hoạt động (cùng lúc làm đại lý cho nhiều bên, giao đại lý tiếp cho bên thứ ba) bên đại lý thanh toán không phải là tổ chức tín dụng là gì? Để đối phó với nguy cơ gì? Liệu việc nhận làm đại lý cho nhiều bên mà không được sự đồng ý của bên giao đại lý trước đó dẫn tới rủi ro gì, cho ai?...
"Ban soạn thảo cần cân nhắc bỏ quy định tại khoản 3 Điều 22 nếu không làm rõ được lý do và mục tiêu của quy định này", đại diện một doanh nghiệp đề xuất với Ngân hàng Nhà nước, cơ quan chủ trì soạn thảo Nghị định.
Tại sao khống chế khách hàng cá nhân?
Về nghiệp vụ giao đại lý thanh toán, khoản 5 Điều 23 Dự thảo quy định, trường hợp bên đại lý không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bên giao đại lý có biện pháp quản lý số dư, hạn mức giao dịch: Hạn mức rút tiền mặt tối đa đối với khách hàng cá nhân là 20 triệu đồng/khách hàng/ngày; hạn mức trả tiền hoặc chuyển tiền tối đa đối với khách hàng cá nhân là 50 triệu đồng/khách hàng/ngày.
Bên giao đại lý căn cứ vào cơ sở vật chất, hạ tầng của bên đại lý để xác định hạn mức hoặc số dư trên một tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ, thẻ trả trước định danh, thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân mở tại bên giao đại lý theo phương thức trên.
Theo các chuyên gia pháp luật, quy định này cần được xem xét lại. Thứ nhất, Dự thảo chỉ quy định hạn mức rút tiền mặt đối với khách hàng là cá nhân, vậy khách hàng là tổ chức có bị khống chế hạn mức không? Nếu có thì bao nhiêu? Nếu không thì tại sao lại không khống chế đối với khách hàng là tổ chức, trong khi quy định này yêu cầu bên giao đại lý phải có biện pháp quản lý số dư, hạn mức giao dịch?
Thứ hai, quy định bên giao đại lý căn cứ vào "cơ sở vật chất, hạ tầng của bên đại lý để xác định hạn mức và số dư trên một tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ, thẻ trả trước định danh, thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân mở tại bên giao đại lý" là chưa hợp lý vì việc xác định hạn mức hoặc số dư tùy thuộc vào nhu cầu của khách hàng và mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, không phụ thuộc vào cơ sở vật chất, hạ tầng của bên đại lý thanh toán.
Không rõ mục tiêu quản lý
Điều 26 Dự thảo quy định về điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Trong đó, điều kiện về nhân sự: yêu cầu về bằng cấp và số năm kinh nghiệm của người đại diện theo pháp luật, tổng giám đốc (giám đốc); yêu cầu bằng cấp của một số cán bộ chủ chốt (phó giám đốc, trưởng phòng hoặc tương đương, các cán bộ kỹ thuật) (điểm d khoản 2).
Còn điều kiện về kỹ thuật: có cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công nghệ thông tin, giải pháp công nghệ phù hợp với yêu cầu của hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (điểm đ khoản 2).
Nhiều doanh nghiệp bày tỏ băn khoăn, bởi điều kiện về nhân sự không rõ về mục tiêu quản lý và dường như chưa thực sự phù hợp với mục tiêu khi quy định về điều kiện kinh doanh quy định tại Điều 7 Luật Đầu tư. Nếu quy định này nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp thì không cần thiết vì đây là nhu cầu tự thân của doanh nghiệp. Trên thực tế, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đã hoạt động nhiều năm có hiệu quả nhưng không cần phải có người đại diện theo pháp luật và/hoặc các nhân sự chủ chốt đáp ứng điều kiện như quy định ở trên.
Còn điều kiện về kỹ thuật được đánh giá là chưa đủ rõ ràng vì không rõ như thế nào được cho là có các cơ sở vật chất phù hợp với yêu cầu của hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và để đảm bảo tính minh bạch, cần quy định theo hướng có thể định lượng được về điều kiện này.
Bách Nguyễn
Theo Baophapluat.vn
Thiếu cơ chế, méo mó P2P Cho vay ngang hàng (P2P) tại Việt Nam đang ngày càng có nhiều thành viên tham gia. Tuy nhiên thị trường này đang bị méo mó bởi những thành phần kém tích cực. Tiềm năng sẵn có Theo số liệu RapBank có được, cung và cầu thị trường vay P2P rất lớn. Tính đến tháng 6-2019, tiền gửi dân cư tại các tổ...