Trường đại học “như quán phở”?
Ông chủ quán phở chỉ có một mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận và để có lợi nhuận đó, ông ta phải nấu cho ngon, phục vụ cho tử tế. Trường ĐH vì lợi nhuận về bản chất là một doanh nghiệp và mục tiêu của nó cũng không khác.
Trong Đối thoại giáo dục tổ chức tại TPHCM mới đây, một diễn giả đã phát biểu nôm na là trường ĐH cũng như một quán phở, nấu ăn ngon thì người ta sẽ đến. Liệu chúng ta có quá nhấn mạnh đến tính chất dịch vụ của giáo dục ĐH mà bỏ quên sứ mạng xã hội của nó?
Nơi có thể bán và mua
Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, chúng ta đang chứng kiến 2 luồng ý kiến trái ngược: Một bên cổ vũ cho tính chất phi lợi nhuận của giáo dục ĐH, một bên chứng minh rằng đào tạo ĐH cũng là một dịch vụ. Cả 2 phía đều đang đi đến những quan niệm và nhận định cực đoan.
Thí sinh tìm hiểu thông tin tuyển sinh của các trường ĐH trước kỳ thi ĐH, CĐ năm 2014. (Ảnh: Tấn Thạnh)
Trường phái phi lợi nhuận cho rằng giáo dục không phải là chỗ để kinh doanh, đầu tư vào giáo dục chỉ nên để lấy danh chứ không phải lấy tiền, tiêu biểu là ý kiến của GS Trần Văn Thọ (Báo Tuổi Trẻ ngày 12-8). Trường phái vì lợi nhuận thì cho rằng trường ĐH cũng như quán phở, miễn sao bán đúng giá, cung cấp món hàng có chất lượng thì chính là kinh doanh hợp đạo đức và đóng góp cho xã hội, tiêu biểu là nhận định của một diễn giả đã nêu ở trên.
Câu trả lời cho trường phái nào là đúng hay sai, đúng đến mức độ nào hay sai ở chỗ nào nằm trong vấn đề bản chất cốt lõi của trường ĐH là gì. Nếu tuyệt đối hóa sứ mạng xã hội và tính chất lợi ích công của giáo dục ĐH, chúng ta sẽ thấy trường phái phi lợi nhuận là đúng. Trong khi đó, nếu tuyệt đối hóa bản chất dịch vụ của đào tạo ĐH, chúng ta sẽ thấy trường phái vì lợi nhuận là đúng.
“Phi lợi nhuận” là một quan niệm truyền thống mà không mấy ai đặt dấu hỏi. Đã bao thê ky nay, trường ĐH được xem là nơi bảo toàn những giá trị tinh thần của xã hội và truyền lại qua nhiều thế hệ, là nơi kiến tạo tri thức mới và đào tạo nhân tài. Kinh tế tri thức và đại chúng hóa giáo dục ĐH đã khiến trường ĐH không còn là thánh đường tri thức tôn nghiêm mà biến thành một cái siêu thị – nơi người học chọn môn mình muốn, trả tiền cho từng môn không khác gì những món hàng. Tuy vậy, vẫn có nhiều người dị ứng với việc xem nhà trường như một cái chợ, nơi mọi thứ đều có thể bán và mua.
Trường ĐH và quán phở có gì khác?
Video đang HOT
Vậy trường ĐH và cac doanh nghiêp có gì khác nhau? Nếu như doanh nghiêp chỉ cần “giải trình trách nhiệm” với khách hàng về chất lượng dich vu hay san phâm ho đa mua và bảo đảm rằng san phâm hay dich vu ây co chất lượng xứng đáng với giá tiền mà họ đã trả, thi trách nhiệm giải trình của trường ĐH phức tạp hơn rất nhiều.
Trước hết, trường ĐH có trách nhiệm giải trình với sinh viên về chất lượng giáo dục nhà trường đã mang lại. Đồng thời, phải giải trình trước xã hội về kết quả đào tạo của mình, giải trình trước các tổ chức kiểm định chất lượng, các hiệp hội chuyên môn hay trước cơ quan quản lý nhà nước về quy trình hoạt động của mình. Điều đó cũng tương tự ông chủ quán phở phải giải trình trách nhiệm trước khách hàng, trước các cơ quan kiểm dịch, thuế, an toàn thực phẩm.
Hơn nữa, trường ĐH không những có trách nhiệm giải trình với người học và xã hội mà còn phải có trách nhiệm trước những tiêu chuẩn khoa học và đạo đức của chính mình. Sinh viên có thể muốn học thật ít, với chi phí thật thấp, ra trường thật nhanh, lấy tấm bằng một cách thật dễ dàng. Những tiêu chuẩn khoa học và đạo đức của nhà trường không cho phép họ chiều theo mong muốn ấy của “khách hàng”.
Trường ĐH còn phải bảo toàn những giá trị tinh thần kế thừa từ những thế hệ trước và trao lại cho thế hệ sau. Nó không được phép để cho sự thật lịch sử trong quá khứ bị chôn vùi. Nó phải hành động không chỉ vì lợi ích của hôm nay mà còn vì lợi ích của ngày mai. Đó là điều khiến trường ĐH không thể bị đối xử như một doanh nghiệp. Bởi lẽ, doanh nghiệp chỉ có trách nhiệm với khách hàng hiện tại của mình, hay rộng hơn là xã hội hiên tai mà mình là một bộ phận làm nên nó.
Sản phẩm của quán phở chỉ có tác dụng với khách hàng của quán ấy. Trong khi đó, sản phẩm của trường ĐH – con người mà nó đào tạo, kết quả nghiên cứu mà nó thực hiện – không chỉ tác động đến những người đã học ở trường ấy mà còn tác động đến toàn xã hội. Nếu ngươi hoc được đào tạo với một tinh thần khởi nghiệp và sáng tạo, với sự hiểu biết sâu sắc về xã hội và con người, với những kiến thức chuyên môn vững chắc, họ sẽ đem những điều ấy vào nơi làm việc và làm cho xã hội trở thành tốt hơn.
Xét về mục tiêu, bản chất của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận. Ông chủ quán phở chỉ có một mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận và để có lợi nhuận đó, ông ta phải nấu cho ngon, phục vụ cho tử tế. Trường ĐH vì lợi nhuận về bản chất là một doanh nghiệp và mục tiêu của nó cũng không khác. Để có lợi nhuận, họ phải xây trường cho đẹp để thu hút sinh viên, mời thầy cho giỏi và đào tạo sao cho người có học khác với người không có học và ra trường thì tìm được việc làm. Về mặt này, trường vì lợi nhuận cũng đáng được hoan nghênh như mọi doanh nghiệp khác, vì họ tạo ra giá trị gia tăng cho người học và góp phần tích cực vào việc đào tạo lực lượng lao động có trình độ.
Không thể ăn xổi, ở thì
Tuy nhiên, nếu trường ĐH chỉ nhằm vào việc phục vụ khách hàng và tìm kiếm lợi nhuận thì sẽ không có ai nghiên cứu về mặt trăng, sao hỏa, thiên thạch, về quá khứ, về những thứ “vớ vẩn” bởi nó tốn hàng núi tiền mà không có hy vọng gì lấy lại được ngay. Sẽ không ai đào tạo những ngành ít người học, chi phí đơn vị cao, khả năng hoàn vốn thấp. Sẽ không ai dạy những môn không giúp người học mài ra thành tiền được ngay nhưng lại là những món ăn tinh thần nuôi dưỡng lý tưởng, sự công chính, sự trưởng thành của lương tâm, là những thứ giúp bảo toàn cột trụ tinh thần của cả xã hội.
Chính vì lẽ ấy, với những trường đào tạo nghề nghiệp cho sinh viên và coi đó là một dịch vụ, người ta thường gọi là “training providers” (các nhà cung cấp dịch vụ đào tạo) thay vì trường ĐH. Chúng tôi thiết nghĩ sự phân biệt tên gọi đó là xác đáng. Cung kho ma xem la ĐH nêu cac trương chỉ đào tạo những kiến thức và kỹ năng chuyên môn trong một chuyên ngành rất hẹp, không trang bị cho người học một nền tảng kiến thức rộng rãi về các nền văn hóa và các thời đại, một sự hiểu biết đầy đủ về những sức mạnh lịch sử chi phối cuộc sống của con ngươi.
Trường ĐH không chỉ là trường nghề, nó giúp tạo ra những con người có hiểu biết và từng trải trong việc suy nghĩ một cách hệ thống về những vấn đề đạo đức và lương tâm. Với ý nghĩa đó, trường ĐH là cột trụ tinh thần của xã hội. Điều này làm cho trường ĐH khác với các doanh nghiệp.
Nếu sản phẩm của quán phở chỉ có tác dụng với khách hàng của quán ấy thì sản phẩm của trường ĐH – con người mà nó đào tạo, kết quả nghiên cứu mà nó thực hiện – không chỉ tác động đến những người đã học ở trường ấy mà còn tác động đến toàn xã hội.
Ngày càng phức tạp, đa diện Trương công, trương tư vi lơi nhuân hay không vi lơi nhuân không noi lên điêu gi vê chât lương. Co trương tư la nơi ban băng nhưng cung co trương tư đat đên đinh cao như Harvard. Co trương công nôi tiêng thê giơi như ĐH Quôc gia Singapore, cung co trương công mua điêm ban băng. Môi loai trương đêu co sư mang khac nhau, đăc điêm khac nhau va bô sung cho nhau đê tao ra môt hê thông đa dang nhăm đap ưng nhưng nhu câu đa dang cua cuôc sông. Thị trường giáo dục ĐH là một thị trường hàng ngàn tỉ USD sôi động trên toàn cầu. Đó là một thực tế mà dù chúng ta có thừa nhận hay không thì nó vẫn tồn tại. Chúng ta nên công nhận rằng trường ĐH là một thực thể ngày càng phức tạp và đa diện. Trường vì lợi nhuận, thuộc sở hữu tư nhân, là một doanh nghiệp và chúng ta cần thiết lập hành lang pháp lý thích hợp để nó đóng góp tích cực cho xã hội. Trường phi lợi nhuận thuộc sở hữu cộng đồng và trường công thuộc sở hữu nhà nước là những tổ chức được tạo ra để phục vụ lợi ích công. Một sự phân biệt dứt khoát như thế sẽ giúp cho mọi loại trường cùng phát triển và đáp ứng những nhu cầu khác nhau của xã hội. Khuyến nghị chính sách của chúng tôi là thiết lập một hành lang pháp lý rõ ràng cho tất cả loại trường dựa trên đặc điểm sở hữu, sứ mạng của nó và tạo điều kiện cho mọi loại trường phát triển. Ngay cả trường vì lợi nhuận cũng cần được một sự ưu đãi có mức độ nhất định. Quan trọng nhất là cần bảo đảm trách nhiệm giải trình của tất cả các trường, dù là công hay tư, vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận, trước cơ quan quản lý, trước xã hội và trước công chúng.
Theo Phạm Thị Ly
Người Lao Động
Tìm hiểu "ván cờ" của Trung Quốc ở Biển Đông
Một kịch bản Trung Quốc có hành động khiêu khích ở Biển Đông từng được dự báo cách đây 20 năm và lý do dẫn đến các hành động này xuất phát từ mối quan hệ bất cân xứng. Điều này đã được nhiều học giả quốc tế nghiên cứu và công bố trong những năm gần đây...
Trung Quốc sẽ khiêu khích ở Biển Đông-dự báo từ 20 năm trước
Kịch bản Trung Quốc có hành động khiêu khích ở Biển Đông thực ra đã được giới quân sự và chính trị Mỹ dự tính từ lâu. Nhà văn Tôm Clan-xi (Tom Clancy), người có nhiều cuốn tiểu thuyết nổi tiếng về tàu ngầm và các mối quan hệ với lãnh đạo hải quân Mỹ, từng viết tác phẩm SSN về đụng độ ở biển Đông từ năm 1996. Cách tiếp cận dễ hiểu nhất vào "ván cờ" mà Trung Quốc đã sắp đặt suốt hàng chục năm qua trên Biển Đông là thử chơi trò đánh tàu ngầm SSN dựa trên tác phẩm của Tom Clancy.
Trong giới học thuật, năm 1996 giáo sư chính trị học trường Harvard, ông Xa-mu-en Hăn-tinh-tơn (Samuel Huntington), đã đưa ra một kịch bản về sự thay đổi của cục diện địa lý chính trị quốc tế sẽ dồn ép tạo ra căng thẳng ở khu vực Biển Đông. Những hành động của Trung Quốc bành trướng xuống Biển Đông thực sự không phải là quyết định nhất thời, hay các đối sách ngắn hạn vì lợi ích kinh tế. Tất cả khi được xâu chuỗi lại sẽ hoàn toàn ăn khớp với những gì mà các nhà quan sát phương Tây từng ghi nhận và dự báo từ 20 năm trước.
Giàn khoan của Trung Quốc hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. (Ảnh: Sơn Bách/Vietnam )
Theo Giáo sư An-tô-ni Rết (Anthony Reid), Đại học quốc gia Xin-ga-po, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác chính là định chế quan trọng nhất đang gìn giữ trật tự thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay, bắt đầu được thiết lập từ sau Hiệp ước Westphalia năm 1648. Đặc biệt là Hiến chương thành lập Liên hợp quốc sau ngày kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ngay Điều 2 đã nhắc nhở rằng cơ sở hoạt động chính là "chủ quyền và bình đẳng" của tất cả các nước thành viên. "Chủ quyền" được hiểu và thực thi như là chủ quyền của nhà nước và toàn vẹn lãnh thổ. Trong Chiến tranh Lạnh, nguyên tắc này lại được tiếp tục nâng lên thành những cam kết của các nước lớn không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước nhỏ. Giáo sư An-tô-ni Rết nhận định, Trung Quốc đã nhanh chóng nắm bắt và vô cùng khôn khéo áp dụng những nguyên tắc đó để làm lợi cho mình.
Chủ trương "phát triển hòa bình" hiện nay của Trung Quốc chính là chiến lược sử dụng "ngoại giao mềm" để giành ngôi vị cường quốc. Trung Quốc đã dày công xây dựng thế cờ bá quyền từ hàng chục năm qua, bắt đầu bằng các cải tổ hệ thống giáo dục nhằm gia tăng tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc cực đoan "Đại Hán".
Mối quan hệ bất cân xứng
Để độc giả có thể nhanh chóng nắm bắt một số nghiên cứu, bài viết này xin trình bày cuốn sách về vị trí của Trung Quốc ở châu Á đạt được nhờ chủ trương ngoại giao bất cân xứng (Negotiating Asymmetry - China's Place in Asia), do Đại học quốc gia Xin-ga-po xuất bản bằng tiếng Anh năm 2009. Đây là công trình nghiên cứu được tiến hành từ năm 2002 và do các học giả nhiều nước tham gia, trong đó Giáo sư An-tô-ni Rết là người chủ trì. Tất cả các học giả đều đi đến một kết luận chung là bất kể nhìn từ góc độ của quốc gia nào trong khu vực, hay mối quan hệ song phương giữa Trung Quốc với quốc gia đó, thì điểm nổi bật vẫn là chính sách nước lớn và thái độ ép buộc trong trao đổi qua lại. Tùy theo thời điểm cũng như mức độ phản đối của các nước nhỏ mà Trung Quốc sẽ chấp nhận các vị trí khác nhau, nhưng luôn mang tính chất bất cân xứng.
Theo phân tích của Tiến sĩ Alexander L.Vuving (Vũ Hồng Lâm), hình tượng của mối quan hệ gia đình thường được Trung Quốc đem ra áp đặt để giữ thế bề trên với các nước trong khu vực, nhưng mỗi nước lại có đối sách riêng. Ví dụ như trước đây, các vương quốc Đông Nam Á thường chỉ chấp nhận Trung Quốc làm "bố vợ" của mình, thể hiện qua các đám cưới giữa các triều đình. Về lịch sử ngoại giao của Trung Quốc với Việt Nam từ những năm 1800 đến nay, Tiến sĩ Alexander L.Vuving cũng chỉ ra mối quan hệ "anh-em", về cơ bản đã là bất cân xứng.
Tương tự như vậy là quy định triều cống. Có những giai đoạn Việt Nam mặc dù áp dụng hệ thống tổ chức nhà nước giống như Trung Hoa, nhưng khẳng định rõ vai trò khác biệt và tách riêng của mình.
Giáo sư An-tô-ni Rết. (Ảnh: Www.britac.ac.uk)
Khi cố gắng đặt mình vào vị trí ngang hàng với Trung Quốc, Việt Nam sẽ được các nước Đông Nam Á nể phục, giống như xưa kia Hàn Quốc đã từng dứt khoát thoát khỏi cái bóng gia đình của Trung Hoa, mặc dù vẫn duy trì truyền thống Khổng giáo. Khi nỗ lực xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chắc chắn Việt Nam sẽ được châu Á kính nể và công nhận vị trí ngang hàng, đánh giá bằng tư cách của một nền văn minh. Hơn vậy, tích cực đòi quyền bình đẳng trong ngoại giao và quyền lợi biển đảo với Trung Quốc đồng nghĩa với việc ủng hộ cho tiêu chí nền tảng nhất của Liên hợp quốc, mà cũng là nguyên tắc sống cơ bản nhất hiện nay của cộng đồng quốc tế.
Theo Tiến sĩ LÊ THANH HẢI (Viện Hàn lâm khoa học Ba Lan)
Báo Quân đội nhân dân
Học giả Việt tại Harvard nói gì về giàn khoan 981? Liên quan tới việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, các chuyên gia, học giả người Việt tại Đại học Harvard và Đại học Massachusetss Boston cho rằng hành động của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đồng thời đánh giá cao các...