Trung Quốc tạm ngừng nhập khẩu xoài do vi phạm mã số vùng trồng, cần giám sát chặt
Mặc dù tỷ lệ số mã số vùng trồng trồng xoài đang bị phía Trung Quốc tạm ngừng xuất khẩu là không lớn, nhưng đây là một “tín hiệu” cho thấy công tác kiểm tra, giám sát và quản lý mã số vùng trồng đối với các nông sản xuất khẩu cần phải được rà soát, chấn chỉnh kịp thời.
Cấp gần 1.000 mã số vùng trồng
Việc cấp mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói hiện nay đang được triển khai thực hiện theo quy định của nước nhập khẩu. Theo đó, chỉ có nông sản (chủ yếu là rau quả tươi) được sản xuất từ vùng trồng, cơ sở đóng gói mới được phép xuất khẩu sang các nước như Mỹ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc… và gần đây nhất là Trung Quốc.
Nếu không được cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói thì nông sản không đủ điều kiện xuất khẩu theo yêu cầu của nước nhập khẩu.
Theo thông tin cập nhật mới nhất từ Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NNPTNT), đến thời điểm hiện tại, đối với các thị trường xuất khẩu nông sản “khó tính”, Việt Nam đã cấp được 998 mã số vùng trồng.
Sản phẩm xoài cát Hòa Lộc (Đồng Tháp) bị mạo danh mã số vùng trồng. Ảnh: I.T
Trong đó các mã số được cấp nhiều nhất là cho thị trường Mỹ (471), tiếp đó là Australia và New Zealand (393), Hàn Quốc (199) và cuối cùng là các thị trường Thái Lan, Nhật Bản, EU. Ngoài ra, có 47 mã số cơ sở đóng gói đã được cấp cho nông sản xuất khẩu sang các thị trường này.
Riêng thị trường Trung Quốc, tính đến tháng 8/2020 đã có 47 tỉnh gửi văn bản đề nghị và đã cấp được 1.735 mã số vùng trồng với diện tích trên 180.000ha cho 9 loại quả tươi (thanh long, xoài, nhãn, vải, chôm chôm, dưa hấu, chuối, mít và măng cụt) đã được xuất khẩu chính ngạch và 1.832 mã số cơ sở đóng gói.
Trong số này, xoài, nhãn, thanh long… là các sản phẩm có nhiều mã số vùng trồng được cấp nhất. Riêng đối với khu vực ĐBSCL, hiện đã cấp 628 mã vùng trồng và 924 cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Cục Bảo vệ thực vật cho hay, trong thời gian qua, việc kiểm tra và giám sát các vùng trồng, cơ sở đóng gói tại các địa phương được thực hiện về cơ bản đáp ứng được yêu cầu.
Tuy nhiên, tháng 6/2020, Tổng cục Hải quan Trung Quốc thông báo cho cơ quan Kiểm dịch thực vật Việt Nam về 220 lô xoài (khoảng 3.300 tấn trong tổng số 750.000 tấn đã xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm 2019 và 2020 – chiếm khoảng 0,43% tổng lượng xuất khẩu) vi phạm quy định về kiểm dịch thực vật với nhiều nguyên nhân.
Video đang HOT
Phía Trung Quốc yêu cầu tạm ngừng xuất khẩu xoài từ các 12 vùng trồng và 18 cơ sở đóng gói có liên quan để phối hợp tiến hành điều tra nguyên nhân, đề xuất biện pháp khắc phục và nâng cao công tác quản lý, trong đó nhiều nhất là Tiền Giang (có 15 mã số nhà đóng gói và vùng trồng), tiếp đó là An Giang (7 mã) và thấp nhất là Vĩnh Long (2 mã).
“Mặc dù tỷ lệ số mã số cơ sở đóng gói và vùng trồng đang bị phía Trung Quốc tạm ngừng xuất khẩu là không lớn, nhưng đây là một “tín hiệu” cho thấy công tác kiểm tra, giám sát và quản lý mã số vùng trồng đối với các nông sản xuất khẩu cần phải được rà soát, chấn chỉnh kịp thời” – Cục Bảo vệ thực vật nhấn mạnh.
Địa phương thờ ơ, doanh nghiệp gian lận
Cục Bảo vệ thực vật nêu rõ, qua quá trình kiểm tra, rà soát, có thể thấy vẫn còn một số vấn đề tồn tại liên quan đến việc quản lý, giám sát mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói. Cụ thể như, việc quản lý mã số tại các một số địa phương vẫn còn lỏng lẻo, chưa được chú trọng, chưa xây dựng kế hoạch và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói sau khi được cấp mã số.
Bên cạnh đó, sự liên kết giữa vùng trồng, cơ sở đóng gói được cấp mã với các cơ quản lý ở địa phương, trung ương để kiểm soát hàng hóa xuất khẩu còn chưa được chặt chẽ.
Đáng chú ý, Cục Bảo vệ thực vật nhấn mạnh: “Rất nhiều địa phương chưa phân công cho một cơ quan chuyên môn làm đầu mối để thực hiện quản lý, giám sát và hướng dẫn đối với việc kiểm tra và quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói. Điều này dẫn tới việc không thống nhất trong quá trình xử lý công việc”.
Về phía doanh nghiệp xuất khẩu, đã xuất hiện tình trạng các doanh nghiệp sử dụng không đúng mã số, mạo danh mã số của nhau để xuất khẩu. Điều này không những gây ảnh hưởng đến uy tín hàng trái cây Việt Nam xuất khẩu mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến các đơn vị chủ sở hữu mã số.
Nhiều chuyên gia ngành nông nghiệp nhận định, nếu không kiểm tra, giám sát tốt các vùng trồng, cơ sở đóng gói đã được cấp mã số sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của người nông dân.
Thậm chí nguy cơ mất thị trường, không thể xuất khẩu được nữa là rất cao nếu thường xuyên có các vùng trồng, cơ sở đóng gói vi phạm quy định của nước nhập khẩu.
Thời gian tới để quản lý tốt hơn vấn đề này, Bộ NNPTNT xác định tiếp tục chỉ đạo hình thành liên kết chuỗi sản phẩm từ vùng trồng, nhà đóng gói, nhà xuất khẩu, địa phương và cơ quan quản lý nhà nước để ngăn chặn tình trạng đưa sản phẩm từ ngoài vùng trồng hoặc cơ sở đóng gói chưa có mã số vùng trồng vào chuỗi sản phẩm và kiểm soát khẩu xuất khẩu.
Ở cấp địa phương, Bộ NNPTNT nêu rõ cần phân công cụ thể cán bộ và cơ quan đầu mối trong quản lý, giám sát các vùng trồng, cơ sở đóng gói được cấp mã số. Đây chính là đơn vị để Bộ NNPTNT triển khai các hoạt động kỹ thuật cụ thể có liên quan.
Bên cạnh đó, địa phương phải chủ động xây dựng các kế hoạch kiểm tra đề nghị cấp mã số hoặc giám sát các đơn vị đã được cấp mã số và báo cáo kịp thời về cơ quan đầu mối là Cục Bảo vệ thực vật để có các biện pháp xử lý kịp thời nếu có vấn đề xảy ra.
Đề xuất dừng dự trữ quốc gia kho thuốc bảo vệ thực vật 258 tấn, giá trị 42 tỷ đồng
Do việc dự trữ thuốc bảo vệ thực vật khá tốn kém, lại gây nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, Bộ NNPTNT vừa có công văn số 3697/BNN-KH gửi Bộ Tài chính đề nghị dừng dự trữ quốc gia thuốc bảo vệ thực vật.
Công văn do Thứ trưởng Bộ NNPTNT Lê Quốc Doanh ký nêu rõ, theo quy định tại Luật Dự trữ quốc gia và Nghị định số 94/2013/NĐ-CP ngày 21/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Dự trữ quốc gia, Bộ NNPTNT được giao quản lý các nhóm mặt hàng: hạt giống cây trồng; thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất khử khuẩn, khử trùng, xử lý nguồn nước trong nuôi trồng thủy sản; thuốc phòng, chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm.
Bộ NNPTNT kiến nghị dừng dự trữ quốc gia thuốc bảo vệ thực vật do dịch hại cây trồng ít xuất hiện. Ảnh: I.T
Hiện, tổng giá trị hàng dự trữ quốc gia tồn kho đến 31/3/2020 đạt khoảng 430 tỷ đồng.
Những năm qua, công tác quản lý hàng dự trữ quốc gia của Bộ NPTNT đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật và đã thực sự phát huy hiệu quả trên thực tiễn; góp phần hỗ trợ các địa phương phòng, chống dịch bệnh; khắc phục hậu quả thiên tai; đảm bảo an sinh xã hội và ổn định đời sống nông dân.
Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Lê Quốc Doanh, từ năm 2011 đến nay, thuốc bảo vệ thực vật dự trữ quốc gia không được các địa phương đề nghị hỗ trợ bởi các lý do: Dịch hại cây trồng ít xuất hiện và bùng phát; một số địa phương có điều kiện đã chủ động kinh phí để xử lý khi dịch xảy ra.
Mặt khác, thuốc bảo vệ thực vật là hóa chất độc hại, thời gian sử dụng ngắn (từ 2-3 năm) nên phải thường xuyên kiểm tra và có kế hoạch luân chuyển hàng dẫn tới phát sinh chi phí, tốn kém cho ngân sách Nhà nước.
Hiện nay, tồn kho dự trữ quốc gia thuốc bảo vệ thực vật gần 258 tấn, với giá trị khoảng 42 tỷ đồng.
Từ thực tiễn nêu trên, Bộ NNPTNT đã có Công văn số 1560/BNN-KH ngày 02/3/2020 báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh loại bỏ thuốc bảo vệ thực vật ra khỏi Danh mục hàng dự trữ quốc gia.
Ngày 24/3/2020, Văn phòng Chính phủ có Phiếu chuyển số 442/PC-VPCP chuyển Bộ Tài chính xem xét, xử lý kiến nghị của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
Ngày 04/5/2020, Bộ Tài chính đã có Công văn số 5343/BTC-TCDT về dự trữ quốc gia thuốc bảo vệ thực vật.
Sau khi nhận được ý kiến của Bộ Tài chính, Bộ NNPTNT đã chỉ đạo cơ quan chuyên môn là Cục Bảo vệ thực vật nghiên cứu, tham mưu đề xuất đối với các ý kiến của Bộ Tài chính.
Mua bán thuốc bảo vệ thực vật tại cửa hàng vật tư nông nghiệp Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Ảnh: Trần Luận.
Theo báo cáo của Cục Bảo vệ thực vật, trong khoảng 10 năm gần đây, sinh vật gây hại cây trồng ít xuất hiện và bùng phát.
Một số địa phương có công bố dịch nhưng cũng đã tự chủ ngân sách của địa phương hỗ trợ nông dân phòng chống dịch nên không đề nghị Trung ương cấp thuốc bảo vệ thực vật dự trữ quốc gia.
Việc dự trữ bằng sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật cụ thể cũng hạn chế và không linh hoạt trong công tác chống dịch trong điều kiện sinh vật gây hại cây trồng có những diễn biến bất thường, trái với quy luật, phát sinh những sinh vật gây hại mới.
Mặt khác, thuốc bảo vệ thực vật là hóa chất độc hại, có thời gian sử dụng ngắn (2-3 năm) nên phải thường xuyên kiểm tra và có kế hoạch luân chuyển hàng năm, việc này dẫn đến phát sinh chi phí và tốn kém cho ngân sách nhà nước.
Do đó, việc dự trữ thuốc bảo vệ thực vật như hiện nay không thực sự hiệu quả.
Vì vậy, trong công văn gửi Bộ Tài chính, Bộ NNPTNT tiếp tục đề nghị dừng dự trữ quốc gia thuốc bảo vệ thực vật.
Nếu được các cấp có thẩm quyền chấp thuận như kiến nghị tại Công văn số 1560/BNN-KH ngày 02/3/2020, Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ có văn bản đề nghị các địa phương chủ động phòng, chống dịch hại cây trồng bằng nguồn kinh phí của địa phương.
Trong trường hợp cần sự hỗ trợ của Trung ương, Bộ NNPTNT sẽ trình Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ các địa phương theo Nghị định số 02/2017/NĐ-CP ngày 09/01/2017 của Chính phủ về "Cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh".
Bộ Nông nghiệp và PTNT đề nghị Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định việc dừng dự trữ quốc gia thuốc bảo vệ thực vật.
Khó đạt mục tiêu tái đàn lợn Sau một thời gian tạm lắng, hiện nay dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) lại tái phát ở một số địa phương trên địa bàn Hà Nội. Dịch tái phát trong thời điểm giao mùa khiến công tác phòng chống dịch càng khó khăn, phức tạp hơn, ảnh hưởng tới mục tiêu tái đàn lợn của ngành nông nghiệp. Tái đàn lợn như...