Trung Quốc không thể trở thành kẻ giật dây trong khu vực
Theo đánh giá của chuyên gia, đối đầu chiến lược tại châu Á giữa năm 2014 đã vượt quá một kịch bản và Trung Quốc không thể là “kẻ giật dây” cho nguy hiểm trong khu vực.
Trên tờ National Interest hôm 3/6, ông Rory Medcalf, giám đốc chương trình an ninh quốc tế tại Viện nghiên cứu Lowy của Australia đồng thời là chuyên gia tại Viện nghiên cứu Brookings của Mỹ, nêu rõ hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông thời gian gần đây là nhằm thay đổi hiện trạng trong khu vực.
Theo ông Rory Medcalf, sở dĩ Trung Quốc chọn Việt Nam là nước để khiêu khích bởi, cũng như Ukraina, Việt Nam không phải đồng minh của Mỹ. Do đó, Bắc Kinh sẽ có lợi thế gấp đôi trong việc chỉ rõ những giới hạn của Washington trong nỗ lực nhằm xây dựng các mối quan hệ đối tác mới ở châu Á.
Tàu Trung Quốc phun vòi rồng tấn công tàu cảnh sát biển Việt Nam tại vùng biển gần giàn khoan trái phép Hải Dương-981.
Chuyên gia Rory Medcalf nhấn mạnh, cuộc đối đầu chiến lược tại châu Á giữa năm 2014 đã vượt quá nội dung của một kịch bản. Cho tới nay, Trung Quốc thực sự đã gây áp lực lên Việt Nam. Việt Nam không muốn chiến tranh, nhưng Trung Quốc đã từ chối thiện chí các cuộc đối thoại và gây sức ép mạnh mẽ với Việt Nam.
Qua những động thái mới đây của Trung Quốc, các quốc gia có tranh chấp hàng hải khác với Bắc Kinh đã tăng cường an ninh với Mỹ và Nhật Bản để đầu tư vào lĩnh vực quốc phòng. Theo cách của riêng mỗi quốc gia, Malaysia, Indonesia, Singapore và Philippines đang đẩy mạnh sự hợp tác với hải quân Mỹ.
Video đang HOT
Theo giám đốc chương trình an ninh quốc tế tại Viện nghiên cứu Lowy của Australia, một Việt Nam kiên cường cũng sẽ nỗ lực gấp đôi để đối phó với nước láng giềng lớn mà hung hăng, trong đó có việc sử dụng biện pháp pháp lý như Philippines đã làm, nhằm cô lập Trung Quốc bằng luật pháp và dư luận quốc tế.
Bắc Kinh có thể giả vờ nhún vai từ chối một hành động pháp lý. Nhưng họ sẽ gặp rắc rối khi Việt Nam hay các quốc gia khác ở Đông Nam Á kiện Trung Quốc lên tòa án quốc tế dưới sự ủng hộ của Mỹ, châu Âu và các nước khác.
Một sự thật không thể chối bỏ là, trong những năm gần đây, Trung Quốc ngày càng hung hăng trong các tranh chấp hàng hải. Phía sau sự hung hãn đó, ít nhất các quan chức nước này cần biết rằng, họ không thể trở thành những “kẻ giật dây” cho những nguy hiểm trong khu vực. Đây sẽ là một vở kịch dài mà kịch bản không phải do riêng Trung Quốc viết.
Về quan hệ giữa Nga và Trung Quốc, ông Rory Medcalf nhận định, họ có thể hưởng lợi ích lẫn nhau sau khi một thỏa thuận khí đốt khổng lồ sau nhiều năm đàm phán đã được hiện thực hóa. Tuy nhiên, sự hào nhoáng của các cuộc hội nghị và mối quan hệ thân thiết giữa Tổng thống Putin và Chủ tịch Tập Cận Bình tỷ lệ nghịch với sự tin tưởng về chiến lược thực sư giữa Moscow và Bắc Kinh. Nga không muốn làm việc “dưới trướng” Trung Quốc. Họ có quyền bán khí đốt cho Nhật và tăng số lượng vũ khí tới Viêt Nam cũng như Ấn Độ. Các chiến lược gia hai nước sẽ luôn canh chừng nhau trong mối quan hệ dài hạn.
Theo Tri Thức
Tại sao nhiều học giả thế giới lên tiếng phản đối Trung Quốc?
Dư luận quan tâm tới phân tích của học giả Michael Auslin đến từ Viện Doanh nghiệp Mỹ (đăng trên tờ The Street Wall Journal) khi cho rằng, cuộc đối đầu sau khi Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan dầu khí Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là một chiến thuật mới trong những hành vi hung hăng của Bắc Kinh ở Tây Thái Bình Dương. Và nếu bắt nạt được Việt Nam trong vụ giàn khoan Hải Dương 981, đây sẽ trở thành khuôn mẫu cho sự xâm lược các vùng biển tranh chấp trong tương lai.
Kỳ 1: Quan điểm của một số học giả Mỹ
Học giả Elizabeth Economy và Michael Levi, đến từ Hội đồng Quan hệ đối ngoại Mỹ kiến nghị, nếu Trung Quốc không rút giàn khoan Hải Dương 981, Washington nên tăng cường bố trí lực lượng hải quân giúp Việt Nam, đồng thời hạn chế, kiểm soát hoạt động của Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) tại Mỹ.
Theo 2 học giả kể trên, tình hình Biển Đông hiện nghiêm trọng hơn nhiều so với trước đây bởi đội tàu bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981 không những đại diện cho cuộc chiến cướp bóc tài nguyên, mà còn là thái độ ngang ngạnh trên nhiều phương diện của Trung Quốc mà Mỹ phải đối mặt. Ngoài ra, Mỹ cần kết hợp với ASEAN ngăn chặn hành động đơn phương, bác bỏ yêu sách phi lý của Trung Quốc tại Biển Đông.
Bà Bonnie Glaser (trái), và học giả Michael Auslin.
Giáo sư Keith Johnson, giảng viên Khoa Ngôn ngữ học Berkely, Đại học California, Mỹ, cho rằng, việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc cho thấy một thông điệp rõ ràng Bắc Kinh muốn gửi đến Việt Nam: sẽ khoan thăm dò dầu khí tại những nơi nào gây thiệt hại nhiều nhất. Giáo sư Keith Johnson cũng cho rằng, việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 tới Biển Đông cũng tượng trưng cho một cái tát đối với Tổng thống Barack Obama, người vừa trở về sau chuyến thăm 4 nước châu Á nhằm trấn an các đồng minh: Mỹ sẽ ngăn chặn các hành động bắt nạt trên biển của Trung Quốc. Ông Hillary Mann Leverett, chuyên gia của trường Đại học American coi hành động đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển Việt Nam của Trung Quốc thực chất là muốn đẩy lùi sự hiện diện của Mỹ ở Thái Bình Dương.
Theo cảnh báo của chuyên gia Michael Auslin thuộc Viện Doanh nghiệp Mỹ, nếu đạt được ý đồ trong vụ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam, Trung Quốc sẽ coi đây là hình mẫu để tiến chiếm các vùng tranh chấp khác.
Chuyên gia Andrew Scobell thuộc Viện Nghiên cứu chính sách toàn cầu RAND Corporation (Mỹ) cho rằng, việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép trong vùng biển Việt Nam là một phần chiến lược gây "xung đột mức độ chậm" với các bên hữu quan. Ông Vikram Singh, từng là trợ lý về vấn đề Nam và Đông Nam Á của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, hiện là Phó giám đốc một trung tâm nghiên cứu chính sách của chính phủ Mỹ, đã so sánh các quốc gia đang có tranh chấp chủ quyền biển đảo tại châu A Ágiống như những đứa trẻ ở trường đang vừa cầm kéo vừa chạy vòng quanh sân chơi và chiến tranh có thể bắt đầu từ tai nạn hay sơ suất.
Theo chuyên gia Jeff M.Smith, Giám đốc chương trình Nam Á, thành viên Hội đồng Chính sách đối ngoại Mỹ ở Washington, đã đến lúc Washington phải đặt ra giới hạn đỏ đối với Bắc Kinh trong vấn đề chủ quyền hàng hải tại biển Hoa Đông và Biển Đông. Bởi việc này liên quan tới những bất đồng giữa Mỹ và Trung Quốc xung quanh Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Chuyên gia Jeff M. Smith cho rằng, Mỹ không chấp nhận cách hiểu về UNCLOS của Trung Quốc nên Washington phải vạch ra giới hạn đỏ về những hành vi, thái độ không thể chấp nhận trong lĩnh vực hàng hải của Bắc Kinh.
Luật sư Ryan Santicola thuộc bộ phận pháp chế của hải quân Mỹ khẳng định, Bắc Kinh từng vi phạm cam kết song phương, đa phương và thường xuyên hành động đơn phương ở Biển Đông. Cụ thể như Trung Quốc không tuân thủ kết quả đàm phán với Philippines là hai bên cùng rút tàu khỏi bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham hồi tháng 4/2012. Chuyên gia Ryan Santicola còn cho rằng, Trung Quốc đang áp dụng chính sách bất nhất và mâu thuẫn ở Biển Đông.
Giám đốc chương trình An ninh châu Á-Thái Bình Dương Partrick Cronin, đến từ Trung tâm An ninh mới của Mỹ bình luận: Lãnh đạo Trung Quốc đang thử nghiệm một mô hình chấp nhận rủi ro bằng cách ép buộc để khẳng định, kiểm soát yêu sách lãnh thổ hàng hải của mình.
Theo bà Bonnie Glaser, chuyên gia về chính sách đối ngoại Trung Quốc từ Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế cho rằng, Bắc Kinh quyết tâm khẳng định yêu sách ở Biển Đông và sẵn sàng chịu đựng một mức độ căng thẳng với các nước láng giềng. Bà Bonnie Glaser cho hay, Trung Quốc tin rằng những lợi ích mà các nước láng giềng của họ đạt được trong quan hệ với Bắc Kinh về kinh tế sẽ được ưu tiên, và khu vực cuối cùng sẽ phải chấp nhận sự thống trị của Trung Quốc ở Biển Đông?! Bà Bonnie Glaser còn cho rằng, việc Mỹ phản ứng với động thái của Trung Quốc như thế nào sẽ là thước đo cho hiệu quả của chiến lược "xoay trục" của Washington.
Theo nhận định của học giả Edward Luutwak, chuyên gia từng tư vấn cho Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ, những gì xảy ra (phô diễn sức mạnh trong tuyên bố chủ quyền ở biển Hoa Đông và Biển Đông) chứng tỏ Trung Quốc đã bỏ rơi chính sách trỗi dậy hòa bình của họ. Còn theo học giả June Teufel Dreyer, cựu chuyên gia về Viễn Đông của Quốc hội Mỹ, Trung Quốc có khả năng sẽ kiểm tra quyết tâm của Mỹ bằng cách gia tăng căng thẳng trong khu vực thời gian tới. Theo giáo sư luật Julian Ku của trường Đại học Hofstra ở New York, Mỹ, việc Washington công khai bác bỏ "đường lưỡi bò" là điều có ý nghĩa rất lớn bởi Mỹ sử dụng luật pháp quốc tế để thách thức các hành động của Trung Quốc trong khu vực.
Giới chuyên môn quan tâm tới nhận định của ông Julio Amador III, nghiên cứu sinh về châu Á thuộc Trung tâm Đông-Tây ở Washington vì cho rằng, nhiều nước Đông Nam Á tôn trọng sự trỗi dậy và nền kinh tế năng động của Trung Quốc, nhưng sự tôn trọng này không có nghĩa là cúi đầu khi Bắc Kinh "khoe cơ bắp" tại những khu vực tranh chấp biển đảo. Tạp chí The Diplomat dẫn nhận định của Giáo sư James Holmes thuộc Học viện quân sự hải quân Mỹ cho rằng, Trung Quốc đang tìm cách quản lý Biển Đông như thể vùng biển này là của riêng Bắc Kinh. Việc dùng tàu tuần tra bán quân sự, không phải tàu hải quân để thực hiện quy định kể trên là chiến lược ngoại giao "cây gậy nhỏ" và nếu không có quốc gia nào phản ứng, Trung Quốc sẽ thành công trong việc lập ra một hiện trạng mới tại Biển Đông.
Theo Công An Nhân Dân
1 người Trung Quốc 10 năm kiên trì vạch mặt "trò hề" Bắc Kinh ở Biển Đông Từ năm 2005, ông đã cho rằng những chứng cứ lịch sử của Trung Quốc tại vùng biển Nam Hải (biển Đông) không rõ ràng, thiếu căn cứ và không có tính thuyết phục. Học giả Lý Lệnh Hoa, một nhà nghiên cứu về Luật Biển của Trung Quốc, cựu thành viên Trung tâm Tin tức hải dương quốc gia Trung Quốc đã...