Trò kinh doanh bệnh tật của các tập đoàn dược phẩm
Việc hãng dược khổng lồ laxoSmithKline (GSK) bị phạt 3 tỉ đô được coi là vụ lừ.a đả.o y tế lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ và nó đã vạc.h trầ.n bộ mặt thật của những người nhân danh bảo vệ sức khoẻ con người nhưng thực chất là những kẻ buôn bán bệnh tật.
Phát biểu trên tạp chí Fortune trước khi về hưu vào năm 1976, Henry Gasden, giám đốc điều hành của Merck, một trong những tập đoàn dược phẩm lớn nhất thế giới, thổ lộ giấc mơ biến Merck thành một công ty sản xuất kẹo cao su như Wrigley, nghĩa là bán thuố.c cho mọi người, không chỉ người bệnh mà cả… người khoẻ!
Trong phán quyết ngày 2/7, bộ Tư pháp Mỹ khẳng định GSK đã tiếp thị trên thị trường những loại thuố.c chưa được cấp phép, che giấu những dữ liệu liên quan đến độ an toàn của các loại dược phẩm và có hành vi hối lộ liên quan tới chương trình Medicaid của Chính phủ Mỹ.
Mở rộng ranh giới bệnh
Năm 2003, trong một bài báo có tựa đề Nghệ thuật tạo ra một thân phận (tạm dịch từ The Art of Branding a Condition), Vince Parry, một trong những chuyên gia nổi tiếng về quảng cáo thuố.c, đã tiết lộ bí quyết hợp tác với các hãng dược phẩm để thúc đẩy sự “tạo ra những rối loạn y học”. Chiến lược của Parry gồm ba bước: nâng cao tầm quan trọng của những triệu chứng bệnh tật, định nghĩa lại một thân phận đang hiện hữu và “phát triển một thân phận mới cho một nhu cầu thị trường chưa được khai thác”.
Bất công về tiêu thụ dược phẩm Theo các nhà nghiên cứu, tâm điểm của chuyện “buôn bán bệnh tật” là nước Mỹ. Vì dù chỉ chiếm 5% dân số thế giới, người Mỹ tiêu thụ tới 50% thị trường thuố.c kê đơn toàn cầu. Trong hai thập kỷ qua, người Mỹ chi cho thuố.c men bằng hoặc nhiều hơn chi cho giáo dục đại học và mua xe hơi. Một nghiên cứu vào năm 2005 cho thấy người Mỹ thừa nhận họ sử dụng thuố.c kê toa nhiều hơn gấp đôi kể từ năm 1992 – 2003. Trong khi đó, ở nhiều nước đang phát triển, con người lại không có thuố.c để dùng. Ở vùng hạ Sahara của châu Phi, 500 triệu người dân nghèo khổ đang đối mặt với những căn bệnh nhiệt đới hoàn toàn có thể phòng ngừa và chữa trị được như bệnh giun móc và sán máng.
Thật ra chiến lược làm ăn của Parry và các hãng dược phẩm không lạ bởi nó đã được Lynn Payer đề cập từ năm 1992 bằng thuật ngữ “buôn bán bệnh tật” (tạm dịch từ “disease-mongering”). Theo nhà báo y tế người Mỹ này, đây là một tiến trình gồm nhiều hình thức khác nhau nhằm gia tăng sự tiêu thụ dược phẩm trong đó có việc đưa ra những yếu tố nguy cơ mới về bệnh tật, biến những vấn đề sức khoẻ nhẹ thành vấn đề nghiêm trọng, mở rộng những định nghĩa bệnh tật sẵn có và tạo ra những dạng bệnh tật mới.
Video đang HOT
Trong nhiều thập kỷ, các hãng dược phẩm khai thác tối đa chiến lược “buôn bán bệnh tật” này: đỏ mặt trở thành dấu hiệu của chứng rối loạn lo âu xã hội, mãn kinh – sự thay đổi tự nhiên của cuộc sống – biến thành một tình trạng thiếu hụt hoóc-môn, những khó khăn tìn.h dụ.c đời thường bị nhào nặn thành rối loạn chức năng tìn.h dụ.c, phụ nữ trung niên được cảnh báo bởi một căn bệnh xương tiềm ẩn gọi là loãng xương, còn nam giới trung niên được cảnh báo về tình trạng tăng cholesterol má.u.
Khó biết được chính xác các hãng dược phẩm đã bỏ túi bao nhiêu trong trò kinh doanh bệnh tật, nhưng chỉ riêng món thuố.c hạ cholesterol má.u là statin, hàng năm các đại gia như Bayer (Đức), AstraZeneca (Anh – Thuỵ Sĩ) và Pfizer (Mỹ) đã ẵm gọn 25 tỉ đôla Mỹ! Doanh số chắc chắn không dừng lại ở đây khi định nghĩa tăng cholesterol của viện Sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ được điều chỉnh xoành xoạch: dựa vào định nghĩa của năm 2001, nước Mỹ có 36 triệu người được cảnh báo tăng cholesterol và cần uống thuố.c, nhưng với định nghĩa cập nhật năm 2004 con số đó tăng lên 40 triệu người! Có thêm nhiều bệnh nhân, các hãng dược phẩm càng có thêm tiề.n.
Tiếp thị nỗi sợ hãi và quảng cáo láo
FDA phát hiện thuố.c chữa bệnh tiểu đường này của GSK che giấu số liệu an toàn.
Trong cuốn Buôn bán bệnh tật: Làm thế nào những công ty dược phẩm lớn nhất thế giới biến chúng ta thành bệnh nhân (Selling sickness: How the world’s biggest pharmaceutical companies are turning us all into patients), nhà báo Ray Moynihan và nhà nghiên cứu chính sách Alan Cassels cho biết, mặc dù có nhiều chiến dịch “buôn bán bệnh tật” khác nhau, nhưng nhìn chung người ta thường dùng cách tiếp thị nỗi sợ hãi đến người tiêu dùng.
Theo đó, nỗi sợ bị nhồi má.u cơ tim được sử dụng để hù doạ phụ nữ khi cho rằng hội chứng tiề.n mãn kinh của họ cần phải áp dụng liệu pháp thay thế hoóc-môn. Tương tự, các bậc cha mẹ bị hù doạ rằng con cái họ có thể t.ự t.ử nếu những cơn trầm cảm nhẹ không được điều trị bởi những loại thuố.c mạnh. Và nguy cơ chế.t sớm được dùng hù doạ cánh đàn ông nếu họ không sử dụng thuố.c hạ cholesterol để điều trị tình trạng tăng cholesterol.
Theo Moynihan và Cassels, trong khi tung ra những chiến dịch hù doạ, các công ty dược phẩm cũng che giấu sự thật về các vấn đề sức khoẻ và sản phẩm thuố.c. Đơn cử với tình trạng tăng cholesterol má.u, ngày nay y học gần như thừa nhận rằng đây chỉ là một trong nhiều yếu tố có thể làm phát sinh bệnh tim mạch. Ấy vậy mà hầu như ai cũng chăm chú vào tình trạng tăng cholesterol vì đơn giản nó có thể được điều chỉnh bởi thuố.c. Chuyên gia về lĩnh vực y tế công cộng và bệnh tim mạch, giáo sư nổi tiếng người Anh Shah Ebrahim, khẳng định những loại thuố.c hạ cholesterol – nhóm statin – hiệu quả với những ai có sẵn vấn đề tim mạch. Còn những ai chưa có vấn đề này, nên áp dụng những giải pháp rẻ tiề.n và hiệu quả hơn như cải thiện chế độ ăn, siêng năng tập luyện và ngừng hút thuố.c.
Thế nhưng khi quảng cáo thuố.c đến người tiêu dùng, hầu như không hãng dược phẩm nào nói lên sự thật này chứ chưa nói đến chuyện công khai sự thật về tác dụng phụ của thuố.c để mọi người nắm rõ. Năm 2001, Bayer phải thu hồi loại statin có tên Baycol khi sản phẩm này làm 52 người thiệ.t mạn.g và hơn 6 triệu người trên toàn thế giới đối mặt với tác dụng phụ tan cơ sau sử dụng thuố.c. Có nhiều bằng chứng cho thấy Bayer biết rõ những nguy cơ trên, nhưng họ vẫn bỏ qua vì yếu tố lợi nhuận.
Câu chuyện GSK tuần qua cũng là một minh chứng về trò quảng cáo láo. Qua điều tra, cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) phát hiện hãng dược phẩm này đã che giấu các số liệu về sự an toàn của thuố.c chữa bệnh tiểu đường Avandia. Với hai loại thuố.c chống trầm cảm Paxil và Wellbutrin, sự việc tồi tệ hơn nhiều: họ quảng cáo sử dụng Paxil cho tr.ẻ e.m trong khi nghiên cứu sau đó cho thấy thuố.c có nguy cơ khiến tr.ẻ e.m muốn t.ự sá.t, còn với Wellbutrin dù thuố.c chỉ chữa được bệnh trầm cảm nhưng lại được quảng cáo chữa cả chứng tăng cân và giảm ham muốn tình dục!
Theo dantri
Điểm yếu của các smartphone hàng đầu thế giới
Dù điện thoại thông minh đang là xu hướng hiện nay của thị trường công nghệ, với lượng tiêu thụ liên tục tăng lên, song không phải vì thế mà người tiêu dùng cảm thấy hoàn toàn hài lòng với "dế cưng" của mình.
Vừa qua, dịch vụ hướng dẫn, giải đáp trực tuyến FixYa đã sử dụng dữ liệu thu thập được từ hơn 15 triệu báo cáo từ người dùng của họ để lập thành danh sách những vấn đề khó chịu phổ biến nhất mà mọi người thường gặp đối với các mẫu smartphone hàng đầu hiện nay, như Apple iPhone 4S hay Samsung Galaxy S III.
Theo đó, vấn đề khó chịu mà đa số chủ nhân iPhone 4S gặp phải là thời lượng sử dụng pin quá ngắn, khi có tới 45% số câu hỏi về iPhone 4S gửi tới FixYa đã đề cập tới pin.
Ngoài ra, 20% phàn nàn về các vấn đề kết nối WiFi, 15% không thoải mái với kết nối Bluetooth và 10% gặp rắc rối với "phụ tá ảo" Siri.
Trong khi đó, mẫu "siêu smartphone" Galaxy S III mà Smasung vừa ra mắt cũng có vô số khúc mắc và băn khoăn khiến người dùng cảm thấy không hài lòng.
Theo FixYa, 50% số lượng lời phàn nàn về Galaxy S III có liên quan tới sự cố microphone, 15% khó chịu về thời lượng pin và 15% khác gặp vấn đề với thiết bị quá nóng.
Trong danh sách "phàn nàn" mà FixYa công bố, còn có các dữ liệu liên quan tới những mẫu smartphone đáng chú ý như Samsung Galaxy Nexus, dòng sản phẩm RIM BlackBerry Curve, HTC Titan II và Nokia Lumia 900 Windows Phone.
Theo vietbao
32% website .gov.vn có thể bị chiếm quyền điều khiển từ xa Sự bất cẩn của các cơ quan Nhà nước, Chính phủ sẽ gây ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Có tới 32% máy chủ web của các cơ quan Chính phủ sử dụng sản phẩm của Microsoft đang tồn tại lỗ hổng nguy hiểm trong giao thức Remote Desktop Protocol (RDP), có thể bị chiếm quyền điều khiển từ xa, thậm chí...