Triệu chứng trầm cảm ở phụ nữ
Trầm cảm (depression) là một bệnh lý rối loạn về tâm trạng, hay còn gọi là rối loạn khí sắc (mood disorder). Đây là một trong những rối loạn tâm thần thường gặp, làm giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh và cả gia đình của họ. Trầm cảm cũng là một trong số những nguyên nhân dẫn đến những ý nghĩ và hành vi tự sát.
Phụ nữ có dễ bị trầm cảm hơn nam giới?
Phụ nữ mắc trầm cảm nhiều hơn nam giới gấp hai lần: Nếu tính chung ở nam giới, tỷ lệ người có ít nhất một lần bị mắc chứng trầm cảm trong đời là 10% thì tỷ lệ này ở phụ nữ là 20%. Các tiêu chí để chẩn đoán trầm cảm đều giống nhau ở cả hai giới, tuy nhiên người ta nhận thấy rằng các biểu hiện của trầm cảm ở phụ nữ thường là lo âu, mặc cảm có tội và thay đổi khẩu vị cũng như thói quen ăn uống.
Nguyên nhân của sự khác biệt này giữa nam và nữ vẫn chưa được biết rõ; tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng có thể có sự liên quan giữa nồng độ các nội tiết tố sinh dục nữ với chứng trầm cảm.
Trầm cảm có những triệu chứng biểu hiện như thế nào?
- Hứng thú giảm sút, thậm chí biến mất
Những người thích những hoạt động nghiệp dư, một khi có chứng trầm cảm rất dễ bị mọi người xung quanh nhận ra. Tuy nhiên, kể cả người không có bất cứ sở thích ngoài lề nào, nếu công việc thường ngày áp lực, cuộc sống hưởng thụ hay giải trí đều không có hứng thú, không cảm nhận được niềm vui, tức là có thể khẳng định hứng thú giảm sút hoặc mất đi hoàn toàn. Đây là một triệu chứng biểu hiện của trầm cảm.
Người thường cảm thấy mọi thứ rất tồi tệ, tiền đồ tối tăm ảm đạm, tất cả đều không chút hi vọng hay cảm giác vô vọng luôn ùa đến. Tương phản với điều đó, người bình thường luôn có nhiều hi vọng, ví dụ như học tập tiến bộ, sự nghiệp có thành tựu, gia đình mạnh khỏe vv. Đồng thời cũng có nhiều nguyện vọng nhỏ như tiết kiệm mua đồ thương hiệu, thưởng thức liveshow ca nhạc, đi du lịch đến vùng đất xa xôi… Tóm lại, mất đi niềm hy vọng vào tương lai là một biểu hiện của trầm cảm.
- Cảm giác lẻ loi, không ai giúp đỡ
Cảm giác này thực sự đau khổ, đặc biệt họ khó biểu hiện ra và không ít người không muốn đi khám bác sỹ vì họ xác định bác sỹ không thể giúp gì được. Họ luôn cảm thấy họ không giống với những người khác, tựa hồ như đã rời bỏ khỏi trần gian rơi vào một vực sâu thâm cốc và tất cả đã không thể cứu vãn, không ai giúp đỡ được.
Những người như vậy có cuộc sống một ngày dài như một năm, luôn lẻ loi, cô đơn, luôn xa lánh với những người khác. Đây chính là một biểu hiện nổi trội của trầm cảm
Video đang HOT
- Bình luận thấp bản thân
Những người cảm thấy bản thân mình trên thực tế chẳng có tài năng hay không làm tốt bất cứ việc gì kể cả việc nhỏ và đơn giản nhất. Họ luôn cho rằng mình là đồ thải, kiến thức của mình đã sụt giảm trầm trọng hay thậm chí là cảm giác tội lỗi tràn đầy, tội ác tràn ngập và chìm trong cảm giác ấy. Đây cũng là một biểu hiện tiếp theo của trầm cảm.
- Mất đi linh hoạt
Họ cảm thấy toàn bộ con người của họ đã sụp đổ, nổ tung, tan ra như xác pháo. Họ xác định rõ cảm giác đó không phải là cơ thể họ không có sinh lực mà là tinh thần của họ đã mất đi động lực, làm việc gì (kể cả vệ sinh cá nhân) đều cần người khác thúc giục hoặc họ đẩy sang một bên không quan tâm, bản thân không muốn động đến cái gì.
Không ít người vật lộn, đấu tranh để hưng phấn hơn lên, nhưng đều kiên trì không nổi. Người bệnh cho rằng họ đã ở trong “một vũng bùn lầy, không ai kéo lên được”.
- Cuộc sống không có ý nghĩa
Không phải phương thức cuộc sống không có ý nghĩa mà chính là họ cảm nhận cả cuộc đời nhân sinh cơ bản là vô nghĩa. Không chỉ như vậy mà còn nhận thấy sống tức là chịu tội tạo nghiệp ác, sống không bằng chết, họ thường xuyên âm ủ ý định tự sát, thậm chí thực hiện tự sát.
Nguyên nhân nào gây ra chứng trầm cảm?
Trạng thái trầm cảm có liên quan đến sự mất cân bằng của các chất hóa học có vai trò trong sự dẫn truyền thần kinh trong não bộ.
Trầm cảm cũng có thể được kích hoạt bởi một số các sự kiện gây stress trong đời sống; vì thế nó có thể xảy ra sau những sự kiện như: cái chết của một người thân, vợ chồng ly hôn hoặc sau một sự chuyển đổi chỗ ở (ví dụ: trầm cảm xảy ra ở những người trẻ mới trưởng thành rời quê nhà lên thành phố học đại học hoặc làm việc…)
Trầm cảm cũng có thể có tính di truyền. Yếu tố di truyền có thể được thấy rõ trong trường hợp những gia đình có những người mắc trầm cảm ở các thế hệ khác nhau.
Trầm cảm cũng có thể xuất hiện khi dùng một số thuốc chữa bệnh, khi lạm dụng các chất gây nghiện (rượu, ma túy) hoặc khi bị mắc những căn bệnh mãn tính lâu ngày…
Một số phụ nữ có thể có tình trạng giao động khí sắc trong thời gian vài ngày sau khi sinh con. Họ có thể cảm thấy hơi bị trầm uất, khó tập trung, ăn mất ngon và khó ngủ ngay cả khi đã cho em bé ngủ. Tình trạng này có thể diễn tiến nhẹ dần và mất đi trong vòng 10 ngày sau khi sinh. Tuy nhiên, ở một số phụ nữ có thể có biểu hiện ngày càng nặng hơn và diễn tiến thành trầm cảm thực sự – y học gọi đây là chứng trầm cảm sau sanh (postpartum depression).
Theo PNO
Triệu chứng của bệnh viêm đại tràng mạn tính.
Viêm loét đại tràng là một bệnh tiêu hoá thường gặp, tỷ lệ mắc bệnh cao ở nhiều nước đang và kém phát triển do mức sống còn thấp nên điều kiện vệ sinh trong ăn uống ít được chú trọng.
Bệnh khởi phát từ một đợt viêm đường tiêu hoá cấp tính do nhiễm khuẩn các vi khuẩn hay các ký sinh vật qua ăn uống nhưng không được điều trị triệt để dẫn tới hiện tượng nhờn thuốc, kháng thuốc. Sau nhiều lần tái phát, bệnh chuyển sang Viêm đại tràng mạn tính.
Dưới đây là một số triệu chứng phổ biến để nhận biết bệnh viêm loét đại tràng:
Khi bị viêm đại tràng mạn tính thường có các triệu chứng sau: Rối loạn đại tiện, đau bụng, mệt mỏi, chán ăn, đầy bụng, giảm trí nhớ, hay cáu gắt. Nếu bị bệnh nặng thì cơ thể gầy sút hốc hác.
Triệu trứng chi tiết1. Triệu chứng lâm sàng:
a. Triệu chứng toàn thân:Người bệnh mệt mỏi, ăn ngủ kém, chán ăn, đầy bụng, giảm trí nhớ, hay cáu gắt, có thể có sốt. Nếu bị bệnh nặng thì cơ thể gầy sút hốc hác.
b. Triệu chứng cơ năng:- Đau bụng: Vị trí: xuất phát đau thường là ở vùng hố chậu hai bên hoặc vùng hạ sườn phải và trái (vùng đại tràng gan góc, góc lách). Đau lan dọc theo khung đại tràng. Tính chất, cường độ đau: thường đau quặn từng cơn, có khi đau âm ỉ. Khi đau thường mót "đi ngoài" , "đi ngoài" được thì giảm đau. Cơn đau dễ tái phát - Rối loạn đại tiện: Chủ yếu là ỉa lỏng nhiều lần một ngày, phân có nhầy, máu. Táo bón, sau bãi phân có nhầy, máu. Táo lỏng xen kẽ nhau (viêm đại tràng khu vực). Mót rặn, ỉa già, sau "đi ngoài" đau trong hậu môn.
c. Triệu chứng thực thể:- Ấn hố chậu có thể có tiếng óc ách, chướng hơi, ấn dọc khung đại tràng đau.- Có thể sờ thấy "thừng xích ma" như một ống chắc, ít di động.
2. Triệu chứng xét nghiệm:
a. Xét nghiệm phân:
- Có thể thấy hồng cầu, tế bào mủ.- Anbumin hoà tan ( ).- Trứng ký sinh trùng, amip, lamblia.- Cấy phân tìm vi khuẩn gây bệnh, có thể ( ).
b. Soi trực tràng
2 loại tổn thương:- Tổn thương viêm:Trên đại thể người ta thường thấy có các hình ảnh: niêm mạc xung huyết, các mạch máu cương tụ thành từng đám, hoặc niêm mạc đại tràng bạc màu, mất độ láng bóng. Tăng tiết nhầy ở vùng niêm mạc bị tổn thương viêm. có thể thấy hình ảnh những chấm chảy máu rải rác ở niêm mạc đại tràng.- Tổn thương loét:Trên đại thể của bệnh viêm đại tràng mạn người ta thấy hình ảnh viêm thường kèm theo với các ổ loét có thể chỉ là vết xước hoặc trợt niêm mạc, có ổ loét thực sự sâu, bờ đều mềm mại, ở đáy có nhầy, mủ, máu...
c. Chụp khung đại tràng có chuẩn bị
- Cần phải chụp 2 lần.- Có thể thấy hình ảnh viêm đại tràng mạn. Hình xếp đĩa. Hình bờ thẳng, bờ không rõ. Hình hai bờ.- Cần phân biệt với các hình dị thường của đại tràng: đại tràng to, dài quá mức, các hình khuyết (trong ung thư), hình túi thừa, các polip đại tràng.
d. Xét nghiệm máu:Hồng cầu, huyết sắc tố, bạch cầu, máu lắng ít thay đổi.
Biện chứng luận trị theo đông y:
- Nguyên nhân:
Thấp nhiệt uẩn kết . Can tỳ bất hòa. ứ trở trường lạc. Tỳ vị hư nhược. Tỳ thận dương hư.
- Phương pháp điều trị:
Thanh nhiệt giải độc- hoá thấp chỉ thống. Sơ can lý tỳ - hành khí chỉ lợi. Hoạt huyết hóa ứ thông lý công hạ. Ôn bổ tỳ thận - sáp trường chỉ tả.
Theo VNE
Biểu hiện & nguyên nhân của bệnh rối loạn tiền đình. Rối loạn tiền đình không phải là bệnh mà là một hội chứng, gây nên bởi các tổn thương hệ thần kinh, tai, tim mạch... Ngoài ra, một số trường hợp lại là do thuốc. Bản thân chẩn đoán rối loạn tiền đình không nói lên được vị trí tổn thương và nguyên nhân gây nên nó. Để có được câu trả lời...