Triển vọng ngành ngân hàng 2020: Điều hành không quá chặt, tăng trưởng vẫn tích cực
Năm 2020, quy định của Ngân hàng Nhà nước về điều tiết ngành ngân hàng tiếp tục duy trì trạng thái hỗ trợ ngành, khả năng sinh lời trên tài sản và định giá các ngân hàng ở mức rất hấp dẫn…
Cả 3 tổ chức gồm Chứng khoán MB (MBS), Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) và Chứng khoán Maybank Kim Eng (MBKE) đánh giá ngành ngân hàng trong năm 2020 tăng trưởng vẫn tích cực dù quy định pháp lý chặt chẽ hơn. Đặc biệt, bức tranh vĩ mô đang rất ổn định để giúp ngân hàng Việt Nam tăng trưởng thu nhập từ lãi cũng như từ phí và duy trì chất lượng tài sản để không phải tăng trích lập dự phòng.
MBKE đã nâng đánh giá từ trung lập lên tích cực đối với ngành ngân hàng trong năm 2020, dựa trên 3 yếu tố: Các quy định của Ngân hàng Nhà nước; Khả năng sinh lời trên tài sản và Định giá.
Về yếu tố các quy định của Ngân hàng Nhà nước: MBKE đánh giá các quy định của Ngân hàng Nhà nước về điều tiết ngành ngân hàng tiếp tục duy trì trạng thái hỗ trợ ngành tăng trưởng và duy trì khả năng sinh lời. Hiện các quy định của ngành ngân hàng đang được đưa ra và triển khai một cách rất hợp lý, như quy định về an toàn vốn hay quy định về trích lập dự phòng.
Nhờ các quy định ở mức vừa phải, không siết chặt quá mức nên các ngân hàng tiếp tục duy trì mức đòn bẩy tài sản trên vốn ở mức 10 -12 lần thay vì giảm xuống ở mức dưới 10 lần như các ngân hàng trong khu vực. Vì vậy, các ngân hàng đang ở chu kỳ khả năng sinh lợi tốt.
Về yếu tố khả năng sinh lời trên tài sản: MBKE đánh giá bức tranh vĩ mô đang rất ổn định để giúp ngân hàng Việt Nam tăng trưởng thu nhập từ lãi cũng như từ phí và duy trì chất lượng tài sản để không phải tăng trích lập dự phòng.
Cụ thể, nhờ bức tranh vĩ mô ổn định, nhờ tỷ lệ tín dụng/GDP hiện tại theo cách tính mới không quá mức căng thẳng (tỷ lệ tín dụng/GDP năm 2019 trên 130%, nhưng việc điều chỉnh cách tính GDP trong năm 2020 làm quy mô GDP tăng lên giúp tỷ lệ tín dụng/GDP giảm xuống dưới 130%) nên ngành ngân hàng sẽ tiếp tục duy trì khả năng tăng trưởng tín dụng cả ngành ở mức 13% – 14%, những ngân hàng đầu ngành khoảng 15% – 16%.
Đặc biệt khả năng sinh lời của ngân hàng được cải thiện nhờ chi phí ngoài lãi đặc biệt là phí từ bán bảo hiểm tăng lên giúp ngân hàng cải thiện được ROA lên mức 1,8% – 2%. Nhờ đòn bẩy tài chính hợp lý ở mức 10 – 12 lần, khả năng sinh lời ROE ở mức rất tốt từ 18% – 20%.
Về định giá: Theo MBKE, định giá của các ngân hàng Việt Nam đang ở mức rất hấp dẫn với mức P/B đang ở khoảng 1 lần đối với rất nhiều ngân hàng đầu ngành và khả năng sinh lời ở mức 18-20%.
Video đang HOT
Mặc dù khả năng sinh lời tốt nhưng định giá ngân hàng Việt Nam hiện tại vẫn đang ở mức rất là hấp dẫn chỉ ở mức 0,9 – 1 lần P/B đối với rất nhiều ngân hàng đầu ngành. Một yếu tố khiến cho định giá các ngân hàng Việt Nam chưa được cải thiện đó là do yếu tố về giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài. MBKE kỳ vọng những sáng kiến về quỹ chỉ số Financial hay quỹ chỉ số Diamond, tức là những chỉ số theo dõi các cổ phiếu full room và có định giá hấp dẫn sẽ là một cái yếu tố giúp định giá của các cổ phiếu đặc biệt là cổ phiếu ngân hàng sẽ được cải thiện hơn trong năm 2020.
Khối phân tích của VDSC ước tính rằng các chính sách mới của Ngân hàng Nhà nước sẽ có ảnh hưởng với mức độ khác nhau đến kết quả kinh doanh của từng nhóm ngân hàng. Trong đó, các ngân hàng quốc doanh nhiều khả năng sẽ gặp khó khăn hơn trong việc mở rộng biên lãi ròng; tác động lên các ngân hàng tư nhân là đa chiều và có mức độ ảnh hưởng nhẹ hơn.
Tuy vậy, VDSC cũng nhìn thấy cơ hội cho tất cả các ngân hàng khi tăng trưởng tín dụng được duy trì tích cực, bởi vì cho vay vẫn là nguồn thu nhập chính của các ngân hàng và mở rộng tín dụng sẽ cho phép các ngân hàng bán chéo phẩm của họ (thẻ, thanh toán, bảo hiểm, dịch vụ trái phiếu…), từ đó đẩy mạnh thu nhập dịch vụ.
“Sang năm 2020, tăng trưởng tín dụng sẽ ở mức tương tự so với năm 2019, biên lãi ròng sẽ tiếp tục mở rộng một cách có chọn lọc và chi phí dự phòng sẽ được tiết giảm thêm ở một số ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng VDSC phân tích nhiều khả năng sẽ đạt mức tăng trưởng lợi nhuận lõi ít nhất 15% trong năm 2020. VDSC nhận thấy mức định giá thấp (PB dự phóng 2020 ở mức 0,9-1,2 lần) và khả năng sinh lời cao (ROE dự phóng 2020 từ 20-24%) là lợi thế của nhiều cổ phiếu ngân hàng”, Báo cáo chiến lược đầu tư 2020 cho biết.
MBS đánh giá nhu cầu vốn năm 2020 sẽ thiếu hụt ở từng nhóm ngân hàng. Cụ thể, theo đánh giá của Fitch, chuẩn mực Basel II sẽ tăng các tài sản rủi ro 60% so với năm 2017, tổng cộng 463 nghìn tỷ đồng cho toàn hệ thống. Và hệ thống sẽ thiếu hụt vốn cấp 1, diễn ra chủ yếu tại các ngân hàng chưa niêm yết.
Dù vậy, MBS đánh giá thanh khoản thị trường ngân hàng tích cực nhờ: (1) dòng vốn FDI vào Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh và (2) không có sự rút vốn đột ngột nhờ vào các yếu tố như dòng vốn dịch chuyển khỏi Trung Quốc, Việt Nam đang là điểm đến hàng đầu….MBS dự phóng thanh khoản hệ thống tiếp tục dồi dào và không gây áp lực từ bên ngoài lên lãi suất.
Tuy nhiên, cũng như VDSC, MBS cho rằng tăng trưởng NIM của các ngân hàng dần chậm lại do mặt bằng lãi suất huy động có xu hướng tăng lên (các yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước thay thế Thông tư 36 đặc biệt cho hạng mục tỷ lệ huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn bị siết lại sẽ đẩy chi phí huy động lên cao hơn trong năm 2019 – 2020), cạnh tranh ngày càng khóc liệt hơn trong cho vay tiêu dùng, lãi suất trái phiếu Chính phủ tiếp tục giảm và các ngân hàng sẽ định hướng cho vay an toàn hơn (lãi suất thấp hơn) để đáp ứng tiêu chuẩn Basel II.
Theo Quỳnh Nguyễn
Vneconomy
Tăng trưởng tín dụng cuối năm: Cần tập trung vào "chất"
Tính đến 30/9/2019, tăng trưởng tín dụng đạt 9,4%, nên dư địa để tăng dư nợ quý cuối năm vẫn còn nhiều, song cần tập trung vào chất lượng tín dụng, mà không nhất thiết phải đạt mục tiêu 14%.
Các TCTD đã giảm kỳ vọng tăng trưởng huy động và cho vay thời gian tới.
Trong bối cảnh vĩ mô hiện tại, giới phân tích tài chính nhìn nhận, khả năng tăng trưởng dư nợ năm nay sẽ thấp hơn con số 14% đặt ra hồi đầu năm.
Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) ước tính, tăng trưởng tín dụng năm 2019 có thể chỉ đạt 13,2% với tốc độ tăng trưởng và mức trần tín dụng cho từng ngân hàng như hiện nay.
Tương tự, Công ty Chứng khoán BIDV (BSC) đánh giá, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống có thể đạt 12-13% trong năm nay chủ yếu do nhu cầu tín dụng giảm ở những ngành nghề kinh doanh đang gặp khó khăn như bất động sản, thép...
Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM cũng cho rằng, với kịch bản tăng trưởng GDP thực tế đạt 6,6-6,8% và lạm phát bình quân là 3,5-4%, nếu không có sự thay đổi đáng kể thì mức tăng trưởng tín dụng toàn ngành ngân hàng năm nay đạt khoảng 12-13%.
Hiện không ít ngân hàng cạn room tăng trưởng tín dụng đã đệ trình Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xin nới thêm để có dưa địa cho vay trong mùa kinh doanh cao điểm cuối năm, song khả năng khó được chấp thuận.
Theo định hướng của NHNN, kể từ đầu năm 2019, các nhà băng có chất lượng tài sản tốt có thể được tăng hạn mức, nhưng đến nay mới có một số ngân hàng được tăng như ACB từ 13% lên 17%, VPBank từ 12% lên 16%, Techcombank và MBBank từ 13% lên 17% - cũng là những ngân hàng đã áp dụng Basel II.
Nhiều ngân hàng khác dù đã hoàn tất Basel II, nhưng vẫn khó được nới room. 9 tháng qua, tín dụng một số ngân tăng cao như OCB, TPBank tăng 20%..., nhưng cũng có ngân hàng tăng trưởng thấp như BIDV, VietinBank và Eximbank, lần lượt đạt 8,6%, 3,2% và 3,3%, cách xa so với mục tiêu đặt ra đầu năm là 12%, 7% và 12,9%.
Mặt khác, xét về cân đối vĩ mô, theo VDSC, cần lưu ý tới sự chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng và GDP danh nghĩa, nếu độ lệch quá cao thì đồng nghĩa với việc tiền trong nền kinh tế dư thừa và ngược lại.
Hiện nay, khoảng chênh lệch đang ở mức 5%, thấp hơn đáng kể so với năm 2015 và 2017, lần lượt là 7% và 11%.
Tại thời điểm cuối năm 2018, khoảng chênh lệch giảm về 3%, từ mức 6% trước đó, dẫn đến tăng trưởng tín dụng và cung tiền bị siết lại kể từ quý III/2018.
Khảo sát mới đây của NHNN cho thấy, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã giảm kỳ vọng tăng trưởng huy động và cho vay trong thời gian tới.
Cụ thể, huy động vốn toàn hệ thống TCTD được kỳ vọng tăng bình quân 4,39% trong quý IV/2019 và tăng 13,06% trong năm 2019, điều chỉnh giảm 0,42% so với mức kỳ vọng tại kỳ điều tra trước (nhưng vẫn cao hơn mức tăng thực tế 12,45% của năm 2018).
Dư nợ cho vay được kỳ vọng tăng trưởng 4,85% trong quý IV/2019 và tăng 13,61% trong năm 2019, đã điều chỉnh giảm 0,72% so với mức bình quân kỳ vọng 14,33% ghi nhận tại kỳ điều tra trước (thấp hơn mức tăng thực tế 13,88% của năm 2018).
Các TCTD cũng liên tục điều chỉnh giảm kỳ vọng về tốc độ tăng trưởng tín dụng trong năm 2019 qua các kỳ điều tra từ 15,27% xuống 13,61% (tháng 9/2019), gần với mục tiêu tăng trưởng tín dụng toàn ngành năm nay.
Trong khi đó, theo thông tin từ NHNN, tăng trưởng cho vay và huy động trong 9 tháng đầu năm đang chậm lại.
Theo PGS-TS. Trần Hoàng Ngân (Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM), trong hoạt động tín dụng, chất lượng tín dụng là điều quan trọng nhất.
Ông Ngân cho rằng, hoạt động tín dụng đã và đang hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, qua đó cho thấy vốn ngân hàng đang được sử dụng ngày càng hiệu quả, nên không nhất thiết phải hoàn thành mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14% bằng mọi giá.
"Hiện nay, Việt Nam đang tái cơ cấu thị trường tài chính với định hướng nâng cao hơn nữa vai trò của thị trường chứng khoán để trở thành kênh dẫn vốn trung, dài hạn hiệu quả cho nền kinh tế.
Vì vậy, việc giảm dư nợ tín dụng là cần thiết để tăng vốn hóa thị trường chứng khoán. Hướng đi này vừa thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán, thị trường vốn, vừa đảm bảo hoạt động hệ thống ngân hàng an toàn bền vững, đồng thời giúp giảm phụ thuộc vào tín dụng", ông Ngân nhấn mạnh.
Theo Tnnhanhchungkhoan.vn
"Chọn mặt gửi vàng" cổ phiếu nào trong tháng 11? VDSC kỳ vọng thị trường chứng khoán Việt Nam khởi sắc hơn trong hai tháng cuối năm 2019 đem lại nhiều cơ hội cho nhà đầu tư.... "Chọn mặt gửi vàng" cổ phiếu nào trong tháng 11? Nguồn: NLĐ Theo đánh giá của Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC), mặc dù nền tảng nội tại của Việt Nam vẫn ghi nhận giai...