Trị lõm ngực không khó
Lõm ngực bẩm sinh là biến dạng lồng ngực bẩm sinh do sự phát triển bất thường của một số xương sườn và xương ức làm cho lồng ngực bị lõm.
Một số quan điểm cho rằng đây là dị tật có khả năng di truyền trong cùng một gia đình.
Hiện tượng lõm xương ức kéo theo sự phát triển bất thường các sụn sườn lân cận, gây ra hiện tượng đau ngực tại các vị trí này. Qua nhiều năm, người ta nhận thấy một số bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh có bất thường sinh lý.
Ảnh minh họa (nguồn google)
Lõm ngực nhiều làm bệnh nhân khó thở, hay bị mệt và suy dinh dưỡng. Một số bệnh nhân bị hồi hộp, đánh trống ngực hoặc khó thở khi hoạt động gắng sức. Nhiều bệnh nhân đến khám với lồng ngực bị lép và lõm nhiều, gầy trơ xương và có cả những trường hợp suy giảm trí thông minh do bị suy dinh dưỡng. Bệnh nhân thường có triệu chứng hồi hộp, đánh trống ngực do tim bị xoay và bị chèn ép. Những triệu chứng này sẽ mất đi sau phẫu thuật.
Dị tật này có thể phát hiện ngay sau sinh hoặc ở tuổi dậy thì nếu thầy thuốc cũng như gia đình để ý. Mức độ lõm ngực có thể giữ nguyên như sau khi sinh đến lúc trưởng thành và không tự khỏi. Đa số các trường hợp diễn tiến nặng dần và nặng lên rất nhanh trong giai đoạn dậy thì.
Video đang HOT
Từ lâu, người ta đã biết đến lõm ngực bẩm sinh nhưng rất lúng túng trong điều trị. Một thời gian khá dài, bệnh nhân được thầy thuốc khuyên nên tập vật lý trị liệu, chế độ ăn giàu chất canxi nhưng đều thất bại. Một số thầy thuốc khác đề ra phương pháp điều trị lõm ngực bẩm sinh bằng phẫu thuật cắt sụn sườn và cắt xương ức, sau đó cố định lại bằng chỉ thép nhưng phần lớn các phẫu thuật này đều phức tạp và nặng nề, khả năng tàn phá lồng ngực lớn mà hiệu quả không cao. Hiện nay, trên thế giới, những phẫu thuật này không được phép thực hiện nữa vì di chứng của nó cho bệnh nhân là rất nặng nề do gây bất sản lồng ngực đưa đến hiện tượng teo ngực, cản trở và gây suy hô hấp nặng.
Từ khi bác sĩ Nuss, phẫu thuật viên nhi khoa tại Bệnh viện King Daughter Children’s Hospital ở Florida (Mỹ), tiên phong thực hiện phẫu thuật nâng ngực dựa trên nguyên tắc sử dụng những thanh đỡ bằng kim loại (từ năm 1986 đến 1997, ông báo cáo đã thực hiện trên 42 bệnh nhân), nhiều bệnh viện ở Mỹ và châu Âu đã thực hiện phẫu thuật này.
Ở Việt Nam, phẫu thuật nâng ngực dựa trên nguyên tắc sử dụng những thanh đỡ bằng kim loại đã được các chuyên gia Hàn Quốc chuyển giao cho một số bệnh viện lớn tại TPHCM (như Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học Y Dược, Bệnh viện Quốc tế Minh Anh…). Tuy mới áp dụng từ năm 2008 đến nay nhưng đã có hàng ngàn bệnh nhân được điều trị với kết quả tốt.
Theo NLĐ
Trượt đốt sống - Bệnh không thể xem thường
Trượt đốt sống là bệnh thường gặp, xảy ra chủ yếu ở vùng cột sống thắt lưng. Bệnh có thể do bẩm sinh, thoái hoá, chấn thương, bệnh lý gây ra, trong đó hay gặp nhất là trượt đốt sống do hở eo và do thoái hóa.
Vì sao bị trượt đốt sống?
Một người có thể bị trượt đốt sống do một trong các nguyên nhân sau đây: bẩm sinh, bị rối loạn phát triển, với đặc điểm là các khiếm khuyết về giải phẫu của mấu khớp như: thiểu sản mấu khớp, định hướng của khe khớp nằm trên mặt phẳng hướng ra sau, thường có dị tật gai đôi cột sống; thiểu sản mấu khớp, định hướng của khe khớp nằm trên mặt phẳng hướng vào trong. Do khe hở eo, khuyết eo do gãy, do hiện tượng gãy xương và liền xương xảy ra liên tục ở vùng eo; chấn thương làm gãy eo gây trượt. Do thoái hoá chủ yếu ở vị trí L4-5, thường gặp ở phụ nữ tuổi từ 40-50; thoái hoá cột sống, nhất là thoái hoá đĩa đệm và các mấu khớp, làm mất tính vững chắc của cột sống gây nên. Do bệnh lý như: nhiễm khuẩn, ung thư làm hoại tử hay phá hủy các cấu trúc của cột sống; bệnh vôi hoa đôt sông. Do chấn thương làm gãy cuống, gãy mấu khớp dẫn tới mất vững cột sống. Do phẫu thuật cắt cung sau kèm theo cắt bỏ các mấu khớp.
Các mức độ tổn thương trượt đốt sống do thoái hóa.
Phát hiện bệnh có khó không?
Bạn có thể phát hiện được bệnh trượt đốt sống căn cứ vào các dấu hiệu sau: bệnh nhân có biểu hiện mất vững cột sống và chèn ép các rễ thần kinh. Ngươi bênh đau cột sống thắt lưng âm ỉ liên tục, đau tăng khi cột sống phải chịu lực như khi đứng, đi bộ, lao động...nhưng nằm nghỉ thì hết đau hoặc đau giảm hẳn. Khi bệnh nhân thay đổi tư thế cũng gây đau cột sống, phải chống tay vào đùi khi đứng lên. Nếu bệnh nặng thường có thay đổi tư thế thân người và dáng đi. Ở vùng cột sống thắt lưng có thể có biến dạng lõm, gọi là dấu hiệu bậc thang, dấu hiệu nhát rìu... Có bệnh nhân bị đau cách hồi, đây là triệu chứng đau đặc trưng của bệnh: đau khi đi bộ, vì đau phải dừng lại, hết đau mới đi tiếp, đang đi vì đau lại phải nghỉ, hết đau lại đi. Đối với bệnh nhân bị chèn ép rễ thần kinh, họ thường đau cả khi nằm nghỉ. Bệnh nhân bị hẹp lỗ ghép thần kinh được cho là nguyên nhân chèn ép rễ hay gặp nhất. Lỗ ghép hẹp là do các yếu tố như sự lồi vào của bờ sau thân đốt và đĩa đệm, tình trạng khớp giả và tổ chức xơ từ khe hở eo, một phần do cột sống thường xoay nhẹ làm cho lỗ ghép hẹp hơn ở một bên. Số ít bệnh nhân vì tổ chức xơ quá phát từ khe eo rất nhiều trở thành nguyên nhân gây chèn ép rễ thần kinh. Các nguyên nhân chèn ép rễ khác ít gặp hơn như thoát vị đĩa đệm tại mức trượt hay là ở vị trí lân cận các đốt sống trượt. Đối với bệnh nhân trượt đốt sống do thoái hoá, tình trạng chèn ép rễ thần kinh do hẹp lỗ ghép khá phổ biến.
Chụp Xquang, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ xác định được mức độ trượt, mức độ thoái hoá của cột sống và nguyên nhân gây chèn ép thần kinh. Chụp cộng hưởng từ còn đánh giá được tình trạng hẹp lỗ ghép.
Sư dung thưc phâm chưa nhiêu canxi đê han chê thoai hoa côt sông.
Vê điêu tri
Hầu hết bệnh nhân bị trượt đốt sông được điều trị nội khoa. Những bệnh nhân ở tuổi thiếu niên, chỉ cần nằm nghỉ, mặc áo cố định ngoài và hạn chế các hoạt động gây đau là có thể cải thiện được các triệu chứng của bệnh. Đối với bệnh nhân là người trưởng thành, trong những đợt đau cấp phải được nằm nghỉ, tránh mọi hoạt động hay lao động; dùng các thuốc chống viêm, giảm đau như paracetamol, aspirin, diclofenac, ibusprophen... sử dụng vật lý trị liệu, các phương pháp phục hồi chức năng, hướng dẫn bệnh nhân tập các bài thể dục tăng cường các cơ lưng, cơ bụng và cơ đùi; thực hiên ăn uống và các tập luyện nhằm giảm cân đối với người béo.
Điều trị bằng phẫu thuật trong các trường hợp: trượt đốt sống có tổn thương rễ thần kinh; có đau cột sống thắt lưng điều trị nội khoa nhưng không đỡ; trượt đốt sống tiến triển ngày càng nặng. Phẫu thuật ghép xương làm liền xương vững chắc giữa các đốt sống, loại bỏ chuyển động bất thường giữa các đốt sống kém vững.
Theo dõi và điều trị sau mổ: sau mổ, bệnh nhân cần được bất động tại giường từ 5-7 ngày. Nếu bệnh nhân hết đau có thể cho ngồi dậy sớm hơn. Chú ý phát hiện biến chứng sớm: nhiễm khuẩn, tổn thương rễ... Cần chụp Xquang trước khi bệnh nhân ra viện để đánh giá vị trí của vít; đánh giá di lệch trượt sau mổ...
Phòng bệnh cần tránh các cử động nặng vùng thắt lưng để tránh tình trạng gãy xương và liền xương xảy ra liên tục ở vùng eo. Phòng tránh các chấn thương làm gãy eo gây trượt đốt sống như tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tai nạn trong luyện tập thể thao. Dùng thức ăn chứa nhiều canxi để phòng tránh bệnh loãng xương, hạn chế sự thoái hoá cột sống, nhất là ở phụ nữ từ 40-50 tuổi. Điều trị triệt để các bệnh nhiễm khuẩn để phòng biến chứng trượt đốt sống. Đối với bệnh nhân đã mổ điều trị trượt đốt sống, sau khi ra viện, cần kiểm tra định kỳ theo hẹn để đánh giá kết quả mổ, sự phục hồi chức năng cột sống, phát hiện sớm di lệch trượt...
Theo SK&ĐS
Phân biệt teo đường mật bẩm sinh với vàng da sinh lý Bệnh teo đường mật bẩm sinh là một trong những nguyên nhân gây vàng da, ứ mật ở trẻ nhỏ. Trẻ có nguy cơ tử vong trước 1 tuổi nếu không được phát hiện, điều trị kịp thời. Đây là một bệnh bẩm sinh mà nguyên nhân chưa được biết rõ. Tỷ lệ mắc vào khoảng1/10.000 trẻ sơ sinh. Khi phát hiện, thường...