Tranh cãi trong nội bộ Trung Quốc về chính sách Biển Đông
Chính sách và chiến lược của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông chưa rõ ràng do những bất đồng trong giới phân tích và hoạch định chính sách.
Trung Quốc bồi đắp cải tạo trái phép đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: Digital Globe
Căng thẳng trong khu vực đang ngày một lên cao trong bối cảnh Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) sẽ ra phán quyết vụ Philippines kiện “đường lưỡi bò” Trung Quốc đơn phương vẽ ra trên Biển Đông vào ngày 12/7. Trong khi cam kết ủng hộ trật tự dựa trên luật pháp quốc tế trong khu vực, Trung Quốc lại khăng khăng bác bỏ thẩm quyền của tòa, thậm chí còn ngang nhiên tuyên bố bác bỏ phán quyết.
Mặt khác, Bắc Kinh ra sức vận động, lôi kéo các nước khác ủng hộ lập trường “giải quyết tranh chấp bằng đàm phán song phương” trên Biển Đông của mình, phản đối “sự can thiệp của bên thứ ba”. Đồng thời, hải quân Trung Quốc lại tổ chức một đợt tập trận quy mô lớn ở Biển Đông kéo dài một tuần, ngay trước thềm phán quyết của PCA.
Theo Foreign Policy, thực tế trên chứng tỏ Trung Quốc có vẻ không hoàn toàn rõ họ muốn đạt được gì trên Biển Đông, khiến các nước có liên quan không thực sự hiểu rõ ý đồ Bắc Kinh trên vùng biển này. Các chuyên gia phân tích cho rằng điều này là do trong nội bộ Trung Quốc đang có ba luồng tư tưởng đấu đá lẫn nhau để giành ưu thế trong giới phân tích và hoạch định chính sách Biển Đông.
Ba trường phái
Theo Feng Zang, chuyên gia tại Đại học Quốc gia Australia, và là giáo sư trợ giảng tại Viện Nghiên cứu Biển Đông ở Trung Quốc, có những luồng tư tưởng khác nhau trong giới phân tích Trung Quốc về các chính sách tối ưu đối với Biển Đông và có thể tạm chia họ thành ba nhóm: nhóm duy thực, nhóm cứng rắn và nhóm ôn hòa. Các ấn phẩm nghiên cứu, bài viết trên truyền thông cùng những ý kiến được chia sẻ trực tuyến tại Trung Quốc đã hé lộ phần nào những quan điểm khác biệt này, đồng thời cho thấy sự đa dạng về quan điểm trong lòng Trung Quốc.
Theo ông Feng, do tính chất căng thẳng của tình hình hiện nay, các nhà phân tích Trung Quốc hiếm khi công khai những ý kiến chỉ trích lập trường Biển Đông của chính phủ. Điều này có thể lý giải vì sao thế giới bên ngoài thường không biết tới những tranh luận đó. Tuy nhiên, các cuộc tranh luận tại Trung Quốc về Biển Đông có ý nghĩa quan trọng với việc nắm bắt những định hướng trong chính sách đối ngoại tương lai của Bắc Kinh.
Những người duy thực tin rằng nền tảng chính sách Biển Đông của Trung Quốc đã vững chắc và không cần điều chỉnh. Họ hiểu những cái giá phải trả về mặt ngoại giao và uy tín, nhưng thường hạ thấp chúng do đề cao sự hiện diện thực tế cùng năng lực hữu hình của Trung Quốc hơn là hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế.
Niềm tin của họ xuất phát từ nhận thức thực dụng về chính trị quốc tế, rằng sức mạnh hữu hình – thay vì những yếu tố “phù du” như danh tiếng, hình ảnh hoặc luật quốc tế – mới là yếu tố quyết định. Họ tin rằng thời gian đang ủng hộ Trung Quốc, miễn là Trung Quốc có thể duy trì sự trỗi dậy. Ông Feng tin rằng quan điểm chính trị này đang chiếm ưu thế trong quá trình ra quyết định liên quan đến Biển Đông của Trung Quốc.
Những người duy thực tin rằng họ đang bảo vệ lợi ích quốc gia của Trung Quốc bằng cách tăng cường sự hiện diện hữu hình trên Biển Đông. Nhưng họ lại không thực sự chắc chắn biết sẽ làm gì với các đảo nhân tạo phi pháp mới xây dựng. Liệu Bắc Kinh có nên tiếp tục triển khai những công trình quân sự mới, bao gồm việc lắp đặt các hệ thống vũ khí tấn công hay phòng thủ hay không? Những người duy thực muốn Trung Quốc duy trì sức mạnh trên Biển Đông, nhưng lại không biết bao nhiêu là đủ.
Trong khi đó, nhóm đối tượng thứ hai, những người có tư tưởng cứng rắn, lại đưa ra những câu trả lời đầy tính cảnh báo cho những câu hỏi phe duy thực chưa thể trả lời. Họ không chỉ cho rằng Trung Quốc cần hiện diện trên cả 7 đảo nhân tạo nước này cải tạo trái phép ở Biển Đông, bao gồm đá Chữ Thập, Subi và Vành Khăn, mà còn tin rằng Trung Quốc cần tiếp tục mở rộng lãnh thổ và sức mạnh quân sự trên Biển Đông.
Quá trình mở rộng đó bao gồm biến các đảo nhân tạo thành những căn cứ nhỏ, chiếm thêm một số nếu không muốn nói là toàn bộ thực thể do các nước khác kiểm soát, hoặc biến “đường 9 đoạn” mơ hồ thành đường khẳng định chủ quyền.
Những người có tư tưởng cứng rắn không hề bận tâm tới mối lo ngại của thế giới bên ngoài, họ chỉ muốn tối đa hóa lợi ích của Trung Quốc. Ông Feng cho rằng quan điểm này hiện chưa chiếm thế thượng phong quá trình ra quyết định ở cấp cao, nó chỉ thường xuất hiện trong giới chức quân đội và các cơ quan thực thi pháp luật Trung Quốc.
Video đang HOT
Chính sách cứng rắn như vậy trên Biển Đông chắc chắn sẽ có lợi cho những lợi ích chính trị của nhóm người này. Nhưng theo ông Feng, trong dư luận Trung Quốc nói chung cũng có những người mang tư tưởng cứng rắn, mà đại đa số có cái nhìn cảm tính và nông cạn về tình hình Biển Đông. Những người có tư tưởng cứng rắn này kêu gọi Bắc Kinh phải quyết liệt hơn dựa trên tư tưởng dân tộc chủ nghĩa cảm tính, chứ không phải cân nhắc kỹ càng về lợi ích Trung Quốc.
Sự khác biệt giữa hai nhóm tư tưởng cứng rắn và duy thực là trong khi quan điểm của phe cứng rắn cũng dựa trên tình hình chính trị thực tế, họ lại có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đặc biệt cao, khiến việc chung sống với các quốc gia khác trở nên khó khăn.
Mặc dù những người có tư tưởng cứng rắn hiện chưa chiếm ưu thế trong quá trình hoạch định chính sách, giới lãnh đạo Bắc Kinh không thể dễ dàng phớt lờ hoặc bác bỏ họ, do lo ngại có thể thổi bùng tư tưởng dân tộc chủ nghĩa trong dư luận, một lực lượng có thể dễ dàng trở nên mất kiểm soát.
Nhóm thứ ba, những người ôn hòa, tin rằng đã đến lúc Trung Quốc phải điều chỉnh chính sách để làm rõ mục đích của mình trên Biển Đông. Những người ôn hòa nhận ra rằng sự mù mờ hiện nay của Bắc Kinh trong các tuyên bố chủ quyền và toan tính chiến lược của mình đang làm thế giới bên ngoài gia tăng e ngại và mất lòng tin. Họ cho rằng chính phủ không thể đưa ra những lý lẽ chiến lược thuyết phục và thúc đẩy đối thoại một cách hiệu quả với thế giới bên ngoài.
Những người thuộc nhóm này tin rằng lối tiếp cận “cứ làm rồi tính” với những quyết định chiến lược lớn như xây đảo nhân tạo đã khiến Trung Quốc gây tổn hại cho chính lợi ích của mình. Việc cố gắng “hợp pháp hóa” bất kỳ hoạt động xây dựng đảo nào cũng chỉ khiến làm gia tăng hoài nghi thay vì tranh thủ ủng hộ từ bên ngoài.
Những người ôn hòa cho rằng Trung Quốc cần dần làm rõ “đường 9 đoạn”, bởi việc cố ý duy trì sự mù mờ chỉ khiến tấm bản đồ trở thành một gánh nặng lịch sử và trở ngại không cần thiết trong việc đạt được nhượng bộ ngoại giao. Theo họ, hoàn toàn phản tác dụng khi diễn giải tấm bản đồ như một đường khẳng định chủ quyền, bởi làm vậy chỉ khiến Trung Quốc trở thành đối thủ với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, cũng như với Mỹ.
Theo những người ôn hòa, vấn đề lớn nhất của Trung Quốc là nước này thiếu một chiến lược rõ ràng và hiệu quả tại Biển Đông.
Quan điểm của những người ôn hòa rõ ràng khác xa các nhóm duy thực và cứng rắn, nhưng cả ba đều thống nhất ở một điểm chung quan trọng: sự cần thiết của hoạt động xây đảo. Hầu hết học giả nước này khi được hỏi đều không cho rằng việc này là sai lầm.
Họ có thể đưa ra nhiều lý do khác nhau để lý giải cho việc xây dựng đảo, từ tạo chỗ đứng chiến lược tại Biển Đông tới cải thiện điều kiện sống cho nhân sự Trung Quốc đồn trú tại đây. Họ cũng có những đánh giá khác nhau về hậu quả, nhưng tất cả đều tin rằng với sự trỗi dậy hiện tại của Trung Quốc, Bắc Kinh phải hiện diện trên Biển Đông, nhất là khi hầu hết các bên tuyên bố chủ quyền khác đã hiện diện trong khu vực nhiều thập kỷ.
Hiện trạng mới
Cộng đồng quốc tế đã nhiều lần chỉ trích hoạt động xây đảo phi pháp của Trung Quốc. Nhưng với sự đồng thuận rõ ràng trên phạm vi toàn quốc tại quốc gia này, cộng với thực tế Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) không cấm một cách nghiêm ngặt hoạt động cải tạo, xây dựng trên các thực thể trên biển, việc không ngừng công kích hoạt động xây dựng đảo có lẽ là chính sách chưa thực sự hiệu quả, ông Feng nhận định.
Vấn đề có tính chiến lược hơn mà các quốc gia quan tâm sẽ là tạo ra một hiện trạng mới nhưng ổn định trong khu vực, một hiện trạng đòi hỏi Trung Quốc phải làm rõ những ý định chiến lược của mình trên Biển Đông, chuyên gia này viết.
Nhưng chính các lãnh đạo Trung Quốc hiện nay cũng không thể trả lời một cách rõ ràng rằng hiện trạng mới đó có diện mạo như thế nào. Trong ba nhóm quan điểm trên, chỉ có những người có tư tưởng cứng rắn cực đoan mới đưa ra được câu trả lời, nhưng giải pháp của họ tiềm ẩn đầy bất ổn. Phần còn lại của Trung Quốc vẫn đang tranh luận về chiến lược của nước này tại Biển Đông. Đây là một thực tế quan trọng, cho thấy chính sách Biển Đông của Trung Quốc chưa được xác quyết, do đó còn có thể được điều chỉnh.
Ông Feng cho rằng cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ và Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), cần tạo những điều kiện thuận lợi để định hình chính sách của Trung Quốc theo hướng hoà giải và hợp tác hơn. Cụ thể, họ cần giúp nâng cao tầm quan trọng của những người ôn hòa trong quá trình ra quyết định của Trung Quốc, biến những quan điểm ôn hòa từ thiểu số thành sự đồng thuận đa số.
Về phần mình, Trung Quốc cần phải làm rõ các mục tiêu chính sách và trấn an các nước láng giềng, cũng như Mỹ. Một nhà ngoại giao kỳ cựu của Trung Quốc nói rằng nền ngoại giao của Trung Quốc đang ở “tuổi vị thành niên”. Nhưng một Trung Quốc đang trỗi dậy, mang trách nhiệm trong khu vực và toàn cầu, cần phải học cách nhanh chóng trưởng thành, nhà ngoại giao này nhấn mạnh.
Hoàng Nguyên
Theo VNE
Tham vọng khiến Trung Quốc không chịu từ bỏ đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông
Năng lực hạn chế của hải quân trong việc bảo vệ Con đường Tơ lụa trên biển thúc đẩy Bắc Kinh bồi lấp, củng cố các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông.
Tàu sân bay Liêu Ninh của hải quân Trung Quốc. Ảnh: PLAN
Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) mới đây thông báo sẽ ra phán quyết cuối cùng về vụ Philippines kiện "đường lưỡi bò" Trung Quốc đơn phương vẽ ra trên Biển Đông vào ngày 12/7. Trung Quốc khăng khăng từ chối theo kiện, không thừa nhận thẩm quyền của tòa trọng tài, đồng thời tuyên bố sẽ bác bỏ phán quyết của tòa.
Theo các chuyên gia phân tích, việc Trung Quốc tuyên bố phớt lờ phán quyết của tòa trọng tài đã đi ngược lại với cam kết duy trì trật tự dựa trên pháp luật quốc tế của họ, và điều đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của nước này trên trường quốc tế, theo CNN.
Tuy nhiên, ông Ian Storey, chuyên gia cấp cao tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, cho rằng dù phán quyết của PCA có thế nào đi chăng nữa, Trung Quốc cũng sẽ không chịu từ bỏ các đảo nhân tạo bồi lấp phi pháp trên Biển Đông, và Bắc Kinh sẽ tiếp tục theo đuổi tham vọng mở rộng ảnh hưởng bằng chiến lược đảo nhân tạo của mình.
Sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình đề xướng khái niệm "Giấc mơ Trung Hoa", Trung Quốc bắt đầu ồ ạt mở rộng ảnh hưởng xuống phía nam bằng các dự án bồi lấp, cải tạo đảo nhân tạo phi pháp. Chỉ trong vòng một năm, nước này đã gấp rút bồi lấp gần 1.300 hecta đất, biến 7 bãi cạn, đá ngầm thành đảo nhân tạo trái phép. Sau đó, nước này còn xây dựng các đường băng, công trình quân sự, trạm radar trên các đảo nhân tạo này, làm thay đổi cán cân sức mạnh trên Biển Đông.
Trong một bài viết trên Diplomat, ông Frederick Kuo, chuyên gia phân tích xã hội - lịch sử ở San Francisco, Mỹ, nhận định rằng phán quyết rất được mong chờ của PCA sẽ có tác động rất nhỏ đến các hành động của Trung Quốc, bởi các hành động đó được định hình bằng tham vọng lớn của Bắc Kinh nhằm xây dựng một đế chế thương mại không có đối thủ xuyên suốt khu vực Á - Âu và châu Phi.
Khi phân tích mô hình đầu tư và phát triển thương mại của Trung Quốc, ông Kuo cho rằng chiến lược xây đảo nhân tạo của Bắc Kinh trên Biển Đông được thúc đẩy bởi hai động cơ chính, đó là tham vọng thương mại của nước này và nỗ lực khắc phục điểm yếu của hải quân.
Đế chế thương mại
Sau hai thập kỷ công nghiệp hóa và đổi mới kinh tế, Trung Quốc đã vươn lên trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới, với tổng giá trị thương mại lên tới hơn 4,3 nghìn tỷ USD trong năm 2015.
Với sự trỗi dậy mạnh mẽ của nền kinh tế, Trung Quốc đã xây dựng một "đế chế thương mại" ngày càng lớn, với mạng lưới giao thương mở rộng đến châu Âu, châu Phi, Trung Đông, Nam Á. Đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc tăng vọt lên mức gần 120 tỷ USD trong năm 2015. Nước này trở thành đối tác thương mại lớn nhất ở châu Phi, với kim ngạch thương mại hơn 160 tỷ USD trong năm ngoái.
Trung Quốc cũng là đối tác thương mại lớn thứ hai của châu Âu, với kim ngạch 580 tỷ USD mỗi năm. Các khoản đầu tư, thương mại của Trung Quốc đến các quốc gia Trung Đông, Nam Á cũng tăng mạnh trong những năm qua. Tuy nhiên, mạng lưới này lại chứa một mắt xích yếu, đó chính là đường biên giới biển của Trung Quốc rất dễ tổn thương một khi bị các cường quốc nước ngoài bao vây, phong tỏa.
Các hướng tiếp cận với Thái Bình Dương của Trung Quốc gần như bị phong tỏa bởi các đồng minh, đối tác của Mỹ trên vành đai mang tên "Chuỗi đảo thứ nhất", kéo dài từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan xuống tới Philippines. Dù nguy cơ nổ ra xung đột toàn diện trong khu vực là rất thấp, Trung Quốc vẫn rất lo lắng bởi mắt xích yếu này, khi căng thẳng do tranh chấp biển đảo với các nước láng giềng ngày càng tăng lên.
Để củng cố mắt xích này phục vụ mục tiêu mở rộng không ngừng đế chế thương mại của mình, Trung Quốc đã khởi xướng chiến lược "Một vành đai, một con đường", lấy cảm hứng từ Con đường Tơ lụa từ thời cổ đại. Nếu thành công, chiến lược này về cơ bản sẽ thay đổi cán cân sức mạnh toàn cầu nghiêng về Trung Quốc, xây dựng đế chế thương mại lớn chưa từng có trong lịch sử gồm hơn 60 nước xuyên suốt châu lục Á - Âu và châu Phi, với mục tiêu "mọi con đường đều dẫn tới Bắc Kinh".
Con đường Tơ lụa trên biển của Trung Quốc đi qua Biển Đông, tới Ấn Độ Dương, kết nối với châu Phi, châu Âu. Đồ họa: BBC
Dự án "Một vành đai, một con đường" này gồm hai tuyến giao thương chính trên bộ và trên biển, trong đó tuyến đường trên biển chạy dọc Biển Đông xuống hướng nam, xuyên qua eo biển Malacca, vượt Ấn Độ Dương để tới châu Phi, Trung Đông và châu Âu.
Điểm yếu của hải quân
Tuy nhiên, nhiệm vụ bảo vệ tuyến giao thương trên biển đầy tham vọng này khiến hải quân Trung Quốc đối diện với thách thức an ninh hàng hải lớn chưa từng có. Trong lịch sử, Trung Quốc chưa từng sở hữu lực lượng hải quân mạnh có thể vươn ra khắp các đại dương, và sau nhiều nỗ lực hiện đại hóa, hải quân Trung Quốc vẫn chưa thể xây dựng được một "lực lượng biển xanh" như Mỹ và nhiều quốc gia phương Tây.
Trung Quốc đến nay mới chỉ có trong tay một tàu sân bay Liêu Ninh, chủ yếu phục vụ cho mục đích huấn luyện, và chưa thể thành lập được một cụm tàu sân bay chiến đấu. Hải quân nước này chủ yếu thực hiện chiến lược phòng thủ ven bờ, chống tiếp cận, chống xâm nhập khu vực, trong khi các chiến đấu cơ chưa thể mở rộng tầm hoạt động, tác chiến khi thiếu máy bay tiếp dầu trên không.
Theo ông Kuo, các nỗ lực xây đảo nhân tạo của Trung Quốc trên Biển Đông thời gian qua nhằm phục vụ cho mục đích kiểm soát an ninh trên tuyến đường giao thương trên biển. Ý đồ của Trung Quốc là biến các đảo nhân tạo phi pháp này thành những tiền đồn có thể giám sát và bảo vệ tuyến giao thương hàng hải mà họ ngày càng phụ thuộc lớn hơn.
Nói cách khác, nỗi ám ảnh về việc mất quyền kiểm soát tuyến giao thương hàng hải trọng yếu từ Biển Đông tới căn cứ hải quân mới thành lập ở Djibouti là động lực thúc đẩy Trung Quốc biến các bãi cạn mà họ kiểm soát phi pháp thành những "tàu sân bay không thể chìm", để có thể triển khai chiến đấu cơ và các công trình quân sự khác hoạt động lâu hơn, xa hơn trên Biển Đông.
Ông Kuo cho rằng trong chiến tranh, các đảo nhân tạo và công trình quân sự trên đó không có nhiều ý nghĩa chiến lược, bởi chúng dễ dàng bị "thổi bay" bởi các loại hỏa lực không quân, hải quân của đối phương. Tuy nhiên, để phục vụ mục đích giám sát, kiểm soát tuyến hàng hải ở Biển Đông trong thời bình, những căn cứ quân sự và trạm radar giám sát trên các đảo nhân tạo này là đủ.
Đường băng 3.000 mét và các công trình Trung Quốc xây dựng trái phép trên đá Chữ Thập thuộc chủ quyền Việt Nam. Ảnh: CSIS
Chuyên gia này cho rằng với những giá trị mang tính chiến lược đó, Trung Quốc sẽ không dễ dàng từ bỏ các đảo nhân tạo mà họ bồi đắp trái phép trên Biển Đông, bất chấp phán quyết của PCA hay áp lực đến từ Mỹ và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, điều đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nỗ lực xây dựng hình ảnh "trỗi dậy hòa bình" mà Trung Quốc đang theo đuổi cũng như vai trò đối tác phát triển với khu vực Đông Nam Á.
"Đây có thể là cái giá mà Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận để đổi lấy việc kiểm soát hiệu quả tuyến đường hàng hải trọng yếu nối đế chế thương mại của họ với Ấn Độ Dương. Bởi vậy, khu vực này nhiều khả năng sẽ còn chứng kiến nhiều căng thẳng hơn nữa, trước khi một hiện trạng mới hình thành", ông Kuo nhận định.
Trí Dũng
Theo VNE
Trung Quốc đính chính thông tin kêu gọi chuẩn bị cho xung đột ở Biển Đông Trung Quốc hôm nay khẳng định "luôn vì hòa bình" sau khi một tờ báo nước này kêu gọi Bắc Kinh chuẩn bị cho xung đột vũ trang ở Biển Đông. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi. Ảnh: Xinhua. Tờ Global Times, ấn phẩm phụ thuộc People's Daily, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc, kêu...