Trần lãi suất 20%/năm: Qui định ‘cứng’ có theo thị trường?
Bộ Luật dân sự (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 24/11 đã luật hoá mức lãi suất vay cố định tối đa là 20%/năm. Thực tế, các ngân hàng đang xác định lãi suất căn cứ theo mức độ rủi ro tăng dần của khoản vay. Quy định “cứng” hoá lãi suất liệu có khả thi?
Trong phiên họp Quốc hội, đa số các đại biểu tán thành quy định: mức lãi suất cố định ngay trong Bộ Luật dân sự tối đa là 20%/năm của khoản tiền vay. Quy định này sẽ được áp dụng khi Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016.
_Tiếp thu các ý kiến của đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã sửa đổi nội dung về lãi suất tại Khoản 1, Điều 468 Bộ Luật dân sự. Theo đó, “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan có quy định khác”.
Trần lãi suất vay 20%/năm
Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Điều khoản sửa đổi này đã nhận được sự tán thành của 410 đại biểu, song vẫn còn 30 đại biểu không đồng ý hoặc bỏ phiếu trắng.
Việc quy định một mức lãi suất cố định tối đa trong Bộ Luật dân sự nhằm hạn chế tình trạng tín dụng đen, cho vay nặng lãi dẫn tới nhiều hệ luỵ tiêu cực cho xã hội. Vấn đề khống chế trần lãi vay đã thu hút nhiều ý kiến trái chiều, như: có nên áp trần lãi vay, mức lãi suất nào là phù hợp, vừa sức chịu đựng của người vay, vừa đảm bảo chi phí vốn, dự phòng rủi ro nợ xấu của ngân hàng.
Có ý kiến cho rằng lãi suất vay của ngân hàng nên tính theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước ( NHNN) nhân với 150% hoặc nâng lên 200%. Ý kiến khác lại cho rằng nên quy định “cứng” là bên vay và cho vay thoả thuận mức lãi suất vay không vượt quá 20%/năm trê
Nhẩm tính theo lãi suất cơ bản là 9%, nếu lấy hệ số 150% thì lãi suất vay của ngân hàng tối đa là 13,5%/năm, nếu lấy 200% thì lãi vay tối đa là 18%/năm. Mức lãi suất vay này được cho là phù hợp với diễn biến lạm phát thấp khoảng 2%, mặt bằng lãi suất huy động bình quân trên 8%/năm…
Video đang HOT
Với cách này, khi NHNN tăng/giảm lãi suất cơ bản thì trần lãi vay cũng sẽ biến động tăng/giảm linh hoạt, bám sát theo diễn biến thị trường._ Đây là quy định “mềm” để tạo thuận lợi cho các ngân hàng chủ động điều chỉnh lãi suất vay phù hợp trong từng thời điểm, từng đối tượng khách hàng căn cứ theo mức độ rủi ro của khoản vay.
Còn quy định “cứng” lãi vay tối đa 20%/năm theo Bộ Luật dân sự mới, một số ý kiến lo lắng rằng mức trần lãi suất sẽ được điều chỉnh theo kỳ họp Quốc hội (một năm 2 lần) là chậm. Hơn nữa, vào giai đoạn tín dụng tăng trưởng nóng như trước năm 2012, lãi suất huy động tới 17-18%/năm, lãi vay dâng lên 20-22%/năm hoặc cao hơn nữa.
Do đặc thù kinh doanh, ngân hàng buộc phải cạnh tranh lãi suất huy động hoặc tăng lãi suất theo mùa vụ, vượt mức 20%/năm sẽ làm phạm Luật? Và khi rủi ro khoản vay càng lớn thì lãi vay càng cao. Đây mới là lãi suất theo thị trường.
Chính các ngân hàng cũng chịu áp lực khi bị áp trần lãi suất, nhưng lãi vay thấp sẽ khó bù đắp rủi ro mất vốn.
Một đồng nợ,bao nhiều đồng lãi?
Với quy định áp trần lãi vay là 20%/năm, Khoản 1 Điều 468 lại không sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị sửa quy định tại Khoản 2 điều này về mức lãi suất ấn định trong hợp đồng vay có lãi suất để giải quyết tranh chấp phát sinh.
Cụ thể, “Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 điều này tại thời điểm trả nợ”. Có nghĩa, mức lãi suất thoả thuận được xác định tối đa là 10%/năm.
Trong quan hệ tín dụng, các ngân hàng đã và đang rất khó xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ xấu có phát sinh tranh chấp, kiện tụng. Theo tìm hiểu của Thời báo Kinh Doanh, trong nhiều trường hợp xử lý thu hồi nợ, ngân hàng đã miễn cưỡng chấp thuận thu hồi nợ gốc và giảm một phần nợ lãi (gồm lãi trong hạn, lãi phạt bằng 150% lãi suất). Mức giảm lãi có thể là 30%, 50% hoặc 100% tuỳ theo thoả thuận, đàm phán giữa chủ nợ và con nợ. Trường hợp xấu nhất là ngân hàng chỉ thu được một phần nợ gốc, và chấp nhận xoá toàn bộ nợ lãi cho con nợ nếu đã mất khả năng thanh toán.
Trao đổi với lãnh đạo xử lý nợ của một ngân hàng có vốn điều lệ 8.800 tỷ đồng, vị này chia sẻ, khách hàng doanh nghiệp có nợ xấu hơn 20 tỷ đồng đã treo trên sổ sách gần 3 năm. Chỉ tính mức lãi suất trung bình vay 10%/năm thì tổng nợ lãi trong hạn đã là 6 tỷ đồng, cộng lãi phạt 150% là hơn 9 tỷ đồng. Tức tổng nợ lãi đã gần chạm mức nợ gốc.
“Trong kinh doanh ngân hàng, rủi ro nợ xấu sẽ khiến ngân hàng mất rất nhiều chi phí, không đơn thuần chỉ là mất nợ gốc, các khoản lãi. Chúng tôi nhẩm tính, một đồng vốn cho vay biến thành nợ xấu thì ngân hàng sẽ mất tới khoảng 30 đồng vốn kinh doanh. Đó mới là thiệt hại đáng kể”- Vị lãnh đạo này chia sẻ.
Theo Thời báo Kinh doanh
Lấn cấn với việc bỏ hay không bỏ trần lãi suất
Theo Điều 468, Dự thảo Bộ luật Dân sự đang trình Quốc hội, trần lãi suất được coi như một công cụ đặc hiệu để trị tín dụng đen. Mặc dù đồng tình với phương pháp trên, song nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, không nên áp dụng công cụ này với khối tổ chức tín dụng.
Việt Nam cần phải dần tiến tới việc áp dụng lãi suất thả nổi
Liên quan đến vấn đề trần lãi suất, Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) đang trình 2 phương án.
Phương án 1: Quy định trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay.
Phương án 2: Quy định trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố, trừ trường hợp luật khác có liên quan có quy định khác.
Theo đánh giá của giới chuyên gia, cơ quan soạn thảo vẫn còn lấn cấn với việc bỏ hay không bỏ trần lãi suất, bởi lo ngại sẽ không có công cụ pháp lý để điều chỉnh đối với những tình huống các ngân hàng có thể lợi dụng một số thời điểm đặc biệt, nhất là lạm phát cao, để đua nhau "dềnh" lãi suất bắt chẹt người vay vốn.
Vì lẽ đó, vấn đề có nên áp trần lãi suất hay không lại một lần nữa được đưa ra thảo luận và xin ý kiến tại nghị trường. Điểm mới của dự thảo lần này là nâng trần lãi suất từ không quá 150% lên không quá 200% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước và có hướng mở khi có quy định thêm "trừ trường hợp luật khác có liên quan có quy định khác".
Thực tế, câu chuyện trần lãi suất lâu nay vẫn gây nhiều tranh cãi trong dư luận. Nhà làm luật cho rằng, cần phải có trần lãi suất để đảm bảo an ninh kinh tế, đặc biệt trong vấn đề chống tín dụng đen. Giới chuyên gia tài chính - ngân hàng thì cho rằng, luật như vậy là đi ngược với tiến trình tự do hóa lãi suất, bởi "vốn" thực chất là một dạng hàng hóa mà đã là hàng hóa thì mức giá của nó phải được dựa trên thỏa thuận. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, việc để lãi suất được điều tiết theo cơ chế thị trường là xu hướng tất yếu.
TS. Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng, trong hoàn cảnh đặc biệt, cơ quan quản lý có thể phải sử dụng công cụ hành chính như trần lãi suất để duy trì trật tự trên thị trường tiền tệ, song nếu quy định cứng trong dự thảo là trái với cơ chế thị trường. Đặc biệt, không có cơ sở để tính toán đưa ra một mức cứng là "lãi suất thỏa thuận không được vượt quá 200% theo lãi suất cơ bản" mà cơ quan soạn thảo đưa ra.
Theo lập luận trên, TS. Cao Sỹ Kiêm bày tỏ quan điểm không ủng hộ việc đưa trần lãi suất cơ bản vào Bộ luật Dân sự áp dụng cho các tổ chức tín dụng, mà thay vào đó, theo ông, cần phải dần tiến tới lãi suất thả nổi. Có như vậy, thị trường mới có thể cạnh tranh thực sự.
Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế (Hiệp hội Ngân hàng) nhận định, nên bỏ lãi suất cơ bản trong Bộ luật Dân sự để tiến tới lộ trình thực hiện tự do hóa lãi suất. Bởi trong thực tế, tại nhiều thời điểm, các ngân hàng đã mặc nhiên vượt trần lãi suất để phản ánh đúng "giá" thị trường, tức là trần lãi suất đã bị vô hiệu hóa. Nay, nếu chỉ nới từ mức cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản lên 200% hay lên 250% như đã từng đề xuất trước đây cũng không thể khiến thị trường tiền tệ được linh hoạt, vì đã bị chốt ở một mức cố định. Nếu quay lại cơ chế trần lãi suất thì vô hình trung, chúng ta đang tiến những bước lùi trong quá trình tiến tới tự do hóa lãi suất.
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, việc để lãi suất được điều tiết theo cơ chế thị trường là xu hướng tất yếu.
Theo Báo Đầu Tư
Cách quy định lãi suất trần phải bảo đảm tính linh hoạt ' Bộ Luật dân sự (BLDS) cần bảo đảm được tính linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất, nhất là khi áp dụng lãi suất cố định trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội của nước ta phát triển chưa thực sự ổn định, bền vững'. Lãi suất trần phải đảm bảo tính linh hoạt, có thể sửa đổi, bổ sung...