Trận đổ bộ chiếm đảo duy nhất của lính dù phát xít Đức
Đức huy động lượng lớn lính dù đổ bộ đánh chiếm đảo Crete, Hy Lạp nhưng hứng chịu thương vong quá lớn khiến Hitler cấm tiến hành các chiến dịch tương tự.
Lính dù Đức đổ bộ xuống Crete. Ảnh: War History.
Trong 12 ngày cuối tháng 5/1941, lực lượng liên quân Anh, Australia, New Zealand và Hy Lạp đã phải nỗ lực chiến đấu để đẩy lui cuộc đổ bộ quy mô lớn chưa từng có của phát xít Đức,
Sau khi Hy Lạp rơi vào tay Đức trong tháng 4/1941, quân Đồng minh tập trung lực lượng bảo vệ Crete, hòn đảo lớn nhất ở đông Địa Trung Hải, nơi phát xít Đức rất muốn tấn công đánh chiếm, theo War History.
Hòn đảo này là nơi lý tưởng để tiến hành các chiến dịch hải quân. Ngoài ra, đường băng trên đảo Crete là nơi tập kết máy bay để tấn công các mục tiêu ở Bắc Phi, làm gián đoạn hoạt động sản xuất dầu của Đức ở Romania hoặc tấn công tuyến hàng hải của Anh ở kênh đào Suez.
Nếu chiếm được đảo Crete, Đức Quốc xã sẽ ngăn chặn quân Đồng minh phát động các cuộc phản công vào khu vực Đức mới chiếm được ở vùng Balkan. Các tướng lĩnh Đức lên kế hoạch sử dụng lực lượng thuộc Quân đoàn không quân XI do thiếu tướng Kurt Student chỉ huy để đánh chiếm hòn đảo này.
Theo kế hoạch, lính Đức sẽ nhảy dù và dùng tàu lượn đổ bộ xuống những cứ điểm trọng yếu dọc bờ biển phía bắc đảo Crete, sau đó Sư đoàn sơn cước số 5 sẽ chuyển quân bằng đường không đến các sân bay chiếm được.
Lực lượng tấn công của Student sẽ đổ bộ xuống khu vực Maleme ở phía tây, trong khi một mũi tấn công nhỏ hơn sẽ nhắm vào phía đông. Mũi đổ bộ chính ở phía đông sẽ được tiêm kích Messerschmitt Bf 109 xuất kích từ đất liền yểm trợ.
Nhờ tin tức tình báo, trung tướng Bernard Freyberg, chỉ huy quân Đồng minh trên đảo Crete, nắm được ý đồ của Đức và thiết lập thế trận phòng thủ trước cuộc tấn công. Tuy nhiên, yếu tố địa hình và trang bị liên lạc nghèo nàn khiến nhiệm vụ bảo vệ cứ điểm quan trọng phía bắc, nơi cách khu vực phe Trục chiếm giữ chỉ 100 km, là nhiệm vụ rất khó khăn.
Tướng Freyberg có khoảng 40.000 quân giữ đảo, hầu hết đều được sơ tán khỏi đất liền sau khi bị thất thủ. Dù quân số đông, họ chỉ có trang thiết bị lạc hậu, không thể liên lạc với nhau do địa hình rừng núi hiểm trở, vũ khí không đủ uy lực để tạo nên sự khác biệt trên chiến trường.
Ngoài lực lượng bộ binh, Freyberg được chi viện thêm 22 xe tăng, 100 khẩu pháo, trong đó chỉ có 49 khẩu có chất lượng đảm bảo và phải dàn mỏng trên đảo.
Trận chiến nổ ra ngày 20/5/1941, lính dù Đức đổ bộ từ máy bay Junkers Ju 52 xuống gần đường băng Maleme. Lực lượng này chịu thương vong lớn trong ngày đầu tiên khi hứng chịu hỏa lực bắn lên từ mặt đất, khiến một số đại đội gần như bị xóa sổ. 400 trong tổng số 600 quân của Tiểu đoàn 3 bị chết trong ngày đầu tấn công Crete do tàu lượn bị bắn rơi hoặc bị quân phòng ngự tiêu diệt sau khi tiếp đất.
Video đang HOT
Sơ đồ tác chiến với các địa điểm đổ quân của Đức. Ảnh: War History.
Dù chịu thương vong lớn, lính dù Đức vẫn chọc thủng được phòng tuyến do liên quân Australia – Hy Lạp thiết lập. Ngay trong đêm 20/5, lực lượng phòng thủ đảo đã phản công, tái chiếm một số vị trí bị mất vào tay quân Đức, nhưng đến sáng sớm, tình hình nhanh chóng thay đổi.
Ngày 21/5, Tiểu đoàn bộ binh 22 của New Zealand rút lui khỏi đồi 107 do hai đại đội phòng ngự ở hai phía không liên lạc được với nhau, khiến đường băng Maleme không được bảo vệ.
Quân Đức chiếm được đường băng Maleme mà không vấp phải sự kháng cự lớn. Tướng Student nhanh chóng tập trung quân chiếm đường băng Maleme và điều thêm quân đổ bộ bằng đường biển. Quân Đồng minh đối phó bằng cách ném bom khu vực nhưng không thể ngăn Sư đoàn sơn cước số 5 được chuyển đến bằng máy bay ngay trong đêm.
Quân Đồng minh tổ chức phản công chiếm lại đường băng nhưng phải đối mặt với các oanh tạc cơ Stuka của Đức, khiến họ phải rút lui sang sườn đông đảo Crete.
Sau 4 ngày giao tranh ác liệt, Freyberg ra lệnh sơ tán toàn bộ lực lượng quân Đồng minh khỏi đảo Crete. Quân Đồng minh mất hơn 1.700 người, cùng với khoảng 6.500 quân đầu hàng và bị phát xít Đức bắt làm tù binh vào 1/6.
Tuy giành chiến thắng, lực lượng lính dù Đức hứng chịu thương vong rất nặng nề với hơn 6.000 quân thiệt mạng. Hoảng sợ với tổn thất quá lớn của chiến dịch nhảy dù chiếm đảo quy mô lớn đầu tiên này, Hitler quyết định lính dù chỉ được sử dụng để yểm trợ bộ binh, không bao giờ được tiến hành thêm bất cứ chiến dịch tương tự nào nữa.
Về phần mình, các tướng lĩnh Đồng minh nhận thấy hiệu quả của việc sử dụng lực lượng đổ bộ trong các cuộc tấn công chiếm đảo. Từ nghiên cứu kinh nghiệm của Đức ở trận Crete, các chiến lược gia Mỹ đã ra mắt học thuyết sử dụng quân đổ bộ trang bị vũ khí hạng nặng khi họ tham chiến ở châu Âu.
Duy Sơn
Theo VNE
Từ kẻ ruồng rẫy vợ con đến người lính nhận Huân chương Danh dự Mỹ
Nhập ngũ để tránh đi tù vì bỏ rơi vợ con, Smith lại trở thành tân binh đầu tiên được thưởng huân chương cao quý nhất của quân đội Mỹ.
Maynard Smith được trao Huân chương Danh dự. Ảnh: War History.
Maynard Harrison "Snuffy" Smith là một kẻ bất trị, gia nhập quân đội Mỹ để tránh bị đi tù. Tuy nhiên, ngay trong lần thực hiện nhiệm vụ đầu tiên ở chiến trường châu Âu, anh ta đã trở thành tân binh đầu tiên nhận được Huân chương Danh dự cao quý của Mỹ, theo War History.
Smith sinh ra trong gia đình giàu có và hay ảo tưởng về sự vĩ đại. Sợ con hư hỏng, bố mẹ Smith gửi anh ta vào học viện quân sự để rèn luyện nhưng không thành công. Năm 1942, sau khi kết hôn với một cô gái và có một đứa con, Smith quyết định bỏ rơi họ. Tòa án phán quyết người đàn ông 31 tuổi này phải chu cấp tài chính cho con, hoặc phải đi tù.
Smith quyết định bỏ trốn, nhưng bị bắt lại và anh ta có thêm lựa chọn, đó là đi tù hoặc nhập ngũ. Smith chọn cách thứ hai, tham gia huấn luyện tại trường pháo binh không quân ở Harlingen, Texas. Sau khi huấn luyện nâng cao, Smith trở thành tiểu đội trưởng và được điều tới Anh vào tháng 3/1943, tham gia chiến đấu trong đội hình Phi đội 423, Phi đoàn oanh tạc 306.
Ra chiến trường, Smith vẫn chứng nào tật nấy, luôn gây sự và làm mất lòng mọi người. Các phi công trong phi đội đều không ưa Smith, nên không ai nhận anh ta vào đội bay của mình. Trong khi các đồng đội leo lên những chiếc oanh tạc cơ xuất kích ném bom phát xít Đức, Smith vùi mình trong các quán rượu.
Đối mặt với hệ thống phòng không dày đặc của quân Đức ở căn cứ tàu ngầm St. Nazaire, phía tây nước Pháp, các oanh tạc cơ Mỹ dần rơi rụng, dẫn đến tình trạng thiếu người nghiêm trọng.
Sau 6 tuần ăn chơi, đến ngày 30/4, Smith được huy động ra trận. Trung úy Lewis P. Johnson phải lái chiếc oanh tạc cơ B-17 cùng 8 binh sĩ khác trong đội, nhưng vẫn thiếu một người điều khiển tháp pháo. Cực chẳng đã, Johnson đành phải chọn Smith.
Ngày 1/5/1943, chiếc oanh tạc cơ của Johnson cùng 77 máy bay B-17 khác lên đường ném bom cảng St. Nazaire. Tuy nhiên, mọi thứ diễn ra không như kế hoạch khi chỉ có 29 chiếc đến được điểm tập kết. Các máy bay khác đã gặp phải vấn đề kỹ thuật hoặc thời tiết xấu, buộc phải quay về căn cứ.
Các oanh tạc cơ Mỹ thả bom xuống mục tiêu và nhanh chóng lẩn vào một đám mây lớn trước khi tiêm kích đánh chặn Đức kịp xuất kích. Các phi công thở phào, tin tưởng rằng mình đã thoát nạn và bắt đầu tìm đường trở về Anh.
Nhưng hoa tiêu trên chiếc máy bay dẫn đầu đã phạm sai lầm khi chuyển sang hướng đông quá sớm, trong lúc nhóm oanh tạc cơ B-17 vẫn đang ở trên bán đảo tây bắc nước Pháp. Đó là đường bay đưa họ thẳng đến Brest, một cứ điểm quân sự kiên cố của Đức với hệ thống pháo phòng không dày đặc lập tức khai hỏa khi phát hiện mục tiêu.
Tiêm kích đánh chặn Đức cũng lập tức xuất kích, đánh chặn đội hình oanh tạc cơ B-17 Mỹ. Sau khi chứng kiến hai chiếc B-17 bị tiêm kích Đức bắn rơi, trung úy Johnson quyết định hạ nhanh độ cao để né tránh, trong khi Smith bắt đầu khai hỏa khẩu súng máy gắn dưới bụng máy bay của mình để bắn trả.
Chiếc B-17 của họ trúng quả đạn pháo 20 mm vào khu vực chứa đài radio ở khoang giữa, khiến máy bay rung lắc dữ dội và hệ thống liên lạc hỏng hoàn toàn. Các phi công trong buồng lái không thể liên lạc được với các thành viên ở khoang phía sau.
Nhận thấy tháp pháo dưới bụng máy bay bị hỏng không khai hỏa được, Smith trèo lên trên và nhận ra khoang vô tuyến đang bốc cháy. Điện đàm viên Harry Bean mang theo một chiếc dù lao ra ngoài, hai pháo thủ hông cũng ôm dù nhảy xuống biển ngay sau đó.
Lỗ thủng trên thân chiếc B-17 của Smith. Ảnh: War History.
Smith vẫn bình tĩnh lấy bình cứu hỏa dập lửa trong phòng vô tuyến. Đúng lúc đó, anh nhận thấy pháo thủ đuôi Roy Gibson đang cố bò thoát khỏi ngọn lửa ở khoang sau. Smith kéo đồng đội ra xa và nhận ra anh ta đã bị trúng đạn ở lưng. Sau khi tiêm thuốc giảm đau và lật ngửa người Gibson để anh ta không ngạt thở vì máu của chính mình, Smith quay lại dập lửa ở phòng vô tuyến cho đến khi một tiêm kích Fw 190 của Đức xuất hiện bên cạnh.
Smith vứt bình cứu hỏa và dùng khẩu súng máy bên hông máy bay bắn trả, khiến tiêm kích Đức phải vòng tránh. Smith lại buông súng, lao vào vứt hết tất cả những gì có thể bên trong khoang ra ngoài, để giảm trọng lượng cho máy bay, kể cả những hòm đạn đang bén lửa và phát nổ.
Lúc này một máy bay địch lại tìm cách tấn công, buộc Smith phải lao đến khẩu súng máy bên sườn để bắn trả và quay lại dập lửa cho đến khi bình cứu hỏa cạn kiệt. Anh ta dùng các chai nước, thậm chí tiểu tiện thẳng vào ngọn lửa trên khoang nhưng bất thành.
Tuyệt vọng, Smith dùng tay và chân dập lửa cho đến khi quần áo bắt cháy nhưng vẫn không mang lại kết quả. Sau đó, một tiêm kích Đức bổ nhào xuống chiếc B-17, buộc Smith chạy đến vị trí súng máy bên hông lần thứ ba và cố gắng bắn trúng máy bay địch.
Trong một tiếng rưỡi tiếp theo, Smith chăm sóc Gibson và bắn trả máy bay Đức, cũng như tìm ra cách dập ngọn nóng tới mức làm nóng chảy cả kim loại. Chiếc oanh tạc cơ B-17 cuối cùng cũng thoát khỏi sự đeo bám của tiêm kích Đức và cố gắng lết về sân bay ở Anh, nhưng nó bị gãy đôi khi hạ cánh.
Chiếc B-17 của Smith đã bị trúng hơn 3.500 viên đạn và mảnh đạn pháo. Ngoài ba người đã nhảy dù, tất cả phi hành đoàn đều sống sót. Sau vụ việc này, Smith tiếp tục tham gia các sứ mệnh bay dù vẫn bị đồng đội ghét, bởi thái độ của anh ta vẫn không thay đổi. Vì mải chè chén và đến muộn trong một lần xuất kích, Smith bị cấp trên trừng phạt bằng cách điều xuống làm việc trong nhà bếp.
Tuy nhiên Tổng thống Franklin Roosevely nhận ra hành động của Smith trên chiếc oanh tạc cơ B-17 là cơ hội tuyệt vời để quảng bá hình ảnh và lòng dũng cảm của không quân Mỹ. Ông chỉ thị trao Huân chương Danh dự, phần thường cao quý nhất của quân đội Mỹ, cho Smith vì chiến công này. Đây là tân binh đầu tiên của Mỹ được trao tặng Huân chương Danh dự trong Thế Chiến II.
Đích thân Bộ trưởng Chiến tranh Henry L. Stimson bay đến Anh để trao huân chương cho Smith, nhưng không ai thông báo cho anh ta về việc này. Khi lễ trao huân chương sắp diễn ra, Smith vẫn đang mải dọn dẹp trong nhà bếp của đơn vị.
Maynard Smith và bộ trưởng Stimson tại lễ trao huân chương. Ảnh: War History.
Duy Sơn
Theo VNE
Trận chiến thảm họa của tàu sân bay Anh với thiết giáp hạm Đức Sự chủ quan của các sĩ quan chỉ huy tàu sân bay HMS Glorious đã khiến họ trả giá đắt khi đối đầu với hai thiết giáp hạm Đức, làm hơn 1.500 thủy thủ thiệt mạng. Tàu sân bay HMS Glorious. Ảnh: WW2Today. Trong Thế chiến II, thiết giáp hạm là mối đe dọa luôn khiến tàu sân bay phải dè chừng. Điều...