Trận chiến thảm họa của Mỹ trong lần đầu đụng độ phát xít Đức
Sự non kinh nghiệm, thiếu hiểu biết chiến thuật của đối phương khiến quân Mỹ nhận thất bại ở trận Kasserine trên chiến trường Tunisia đầu năm 1943.
Quân Đồng minh (xanh) và Đức (đỏ) trong trận Kasserine. Ảnh: War History Online.
Trận đụng độ lớn đầu tiên giữa quân Mỹ với quân đội Đức diễn ra ở đèo Kasserine, Tunisia vào tháng 1/1943. Đây được coi là một trong những thất bại thảm họa nhất của quân đội Mỹ, khi những người lính thiếu kinh nghiệm và hoảng loạn đã bỏ vị trí, phá hủy trang bị, mắc kẹt trên chiến trường và bị xóa sổ trong đêm, theo History Net.
Đèo Kasserine là khu vực rộng 3,2 km trên núi Grand Dorsal, thuộc dãy Atlas ở khu vực miền trung và tây Tunisia. Sau khi tiến hành chiến dịch đổ bộ xuống Morocco và Algeria, Quân đoàn II của Mỹ nhanh chóng cơ động về Tunis, thủ đô của Tunisia với hi vọng đến đây trước khi người Đức thiết lập thế trận phòng thủ.
Chiến dịch đổ bộ xuống Morocco và Algeria mang mật danh “Torch” (Ngọn đuốc) nhằm mục tiêu kết hợp với chiến thắng của tướng Bernard Montgomery ở El Alamein. Quân Đồng minh hy vọng hình thành thế gọng kìm bao vây quân Đức và Italy ở Tunisia và Lybia.
Tuy nhiên, thống chế Erwin Rommel, tư lệnh lực lượng Đức ở Bắc Phi đã đoán được ý đồ này. Ông nhanh chóng điều quân tiếp viện từ Sicily, khiến Quân đoàn II của Mỹ và Quân đoàn 1 của Anh bị cầm chân ở miền trung Tunisia. Trong khi đó ở phía đông nam, Quân đoàn 8 của Anh đã chiếm được Tripoli, thủ đô Libya và tăng cường lực lượng để tấn công phòng tuyến Đức.
Các cuộc giao tranh trước khi quân Đức tiến tới đèo Kasserine đã phơi bày sự thật rằng quân Mỹ thiếu hiểu biết về chiến thuật và chiến tranh cơ động của đối phương.
Quân kháng chiến Pháp cầm cự ở thị trấn Faid, phía đông Kasserine. Khi băng qua các ngọn núi, họ bị Sư đoàn Panzer số 21 Đức tấn công và bị đẩy lùi, buộc pháo binh và xe tăng từ Sư đoàn thiết giáp số 1 của Mỹ phải đến để yểm trợ.
Khi xe tăng Mỹ khai hỏa vào quân Đức, đối phương lập tức rút quân. Phía Mỹ háo hức truy đuổi và rơi vào cạm bẫy được giăng sẵn trước đó. Các pháo chống tăng 88 mm của Đức từ trận địa phục kích bí mật đồng loạt khai hỏa, tiêu diệt toàn bộ lực lượng xe tăng Mỹ tham gia truy kích.
Ewin V. Westrate, người trực tiếp chứng kiến trận đánh, mô tả “đó là một vụ thảm sát”. “Xe tăng Mỹ tiến thẳng vào trận địa pháo 88 mm giăng sẵn của Đức. Các xe trúng đạn lần lượt bị nổ tung, bốc cháy hoặc khựng lại vì đứt xích. Những chiếc phía sau cố gắng quay đầu, nhưng dường như Đức bố trí các khẩu pháo chống tăng ở khắp nơi”.
Video đang HOT
Xe tăng Đồng minh bị phá hủy. Ảnh: History Net.
Rommel không quan tâm đến việc Quân đoàn 8 của Anh dần tăng cường ở hướng nam. Ông ra ra lệnh cho quân Đức tiến sâu về phía tây, chiếm Sidi Bou Zid và Sbeita, phía tây nam đèo Kasserine vào giữa tháng 1. Do bị quân Đức áp đảo hoàn toàn, người Mỹ nhanh chóng tổ chức phòng ngự trên các tuyến đường dẫn đến phía tây núi Grand Dorsal.
Rommel đệ trình kế hoạch tiến quân từ đèo Kasserine đến các kho tiếp tế của quân Đồng minh, nhiệm vụ này được giao cho biệt kích Supermo của Italy. Đây là lực lượng đóng vai trò quyết định trong các chiến dịch của phe Trục ở Bắc Phi.
Lính Italy quyết định tấn công cả hai khu vực Kasserine và Sbiba. Kế hoạch khiến chỉ huy Đức lo lắng vì điều này sẽ chia cắt lực lượng, làm các đơn vị của họ bị hở sườn. Tuy nhiên, họ vẫn tiến hành theo kế hoạch của chỉ huy cấp cao. Vụ tấn công diễn ra vào ngày 19/2.
Sư đoàn Panzer số 21 Đức tiến đánh Sbiba và giành thắng lợi ban đầu, nhưng bị đẩy lùi vào ngày hôm sau. Lực lượng tăng cường của Đức di chuyển đến đèo Kasserine vấp phải sự kháng cự của quân Mỹ gồm Trung đoàn thiết giáp số 19, pháo binh Mỹ và pháo binh quân kháng chiến Pháp.
Vấp phải hỏa lực pháo binh hạng nặng, quân Đức hầu như không tiến được thêm. Rommel ra lệnh cho Sư đoàn Panzer 10 dự bị, các đơn vị đột kích của Quân đoàn Phi Châu và Sư đoàn thiết giáp số 131 Centauro của Italy đồng loạt tấn công vào ngày hôm sau.
Tối ngày 19/2, quân Đức và Italy tràn qua cứ điểm Mỹ trên các ngọn đồi ở cả hai bên đèo Kasserine. Đến trưa hôm sau, tuyến phòng ngự của Mỹ bị chọc thủng.
Tướng lĩnh Mỹ rất tức giận, bởi hệ thống chỉ huy cồng kềnh khiến họ khó có thể nhận được mệnh lệnh phòng ngự hoặc phản công. Đà tiến quân của phe Trục tiếp tục diễn ra trong ngày 20-21/2, bất chấp nỗ lực ngăn chặn của lực lượng Đồng minh.
Quân Đồng minh hứng chịu thương vong 10.000 người trong trận đánh ở đèo Kasserine và các cuộc chạm trán trước đó, trong khi phe Trục chỉ mất 2.000 lính.
Trong 10 ngày giao tranh, quân Mỹ đã bị đẩy lùi 80 km, mất 183 xe tăng và gần 7.000 quân, trong đó có ít nhất 300 lính tử trận và 3.000 người mất tích. Tướng Fredendall, chỉ huy phía Mỹ, hiếm khi ra tiền tuyến, chỉ ở trong hầm ngầm cách đó gần 100 km để chỉ huy. Không lâu sau đó, Fredendall bị cách chức.
Khi đã đạt được mục đích giảm áp lực bên sườn và tiến xa hơn mong đợi, Rommel quyết định kết thúc trận đánh và lui binh. Quân Đồng minh tái chiếm đèo Kasserine ngày 25/2. Rommel sau đó tập trung củng cố phòng tuyến Đức ở phía nam, đối phó Quân đoàn 8 của Anh. Nỗ lực này trở nên vô nghĩa vào đầu tháng 4 cùng năm.
Một chiếc M4 Sherman bị quân Đức phá hủy để ngăn Mỹ khôi phục. Ảnh: Reddit.
Tướng Esenhower nhanh chóng điều tra nguyên nhân thất bại của trận đánh, dẫn tới việc thay đổi chiến thuật và cấu trúc chỉ huy cho phù hợp. Nhờ bài học xương máu ở trận này, quân Mỹ sau đó trở thành một lực lượng chiến đấu tinh nhuệ hơn ở Bắc Phi.
“Đây có thể coi là thảm họa tồi tệ nhất của quân đội Mỹ trong lịch sử. Đối với người Mỹ ở quê nhà, đây là thất bại khó tin, khiến niềm tin của họ bị lung lay, bởi trước đó họ luôn nghĩ rằng sẽ giành chiến thắng dễ dàng trước quân Đức”, sử gia Martin Blumenson nhấn mạnh.
Duy Sơn
Theo VNE
Panzerfaust - Súng chống tăng 'ác mộng' của phát xít Đức
Nếu bị trúng đạn từ súng Panzerfaust của phát xít Đức, kíp lái xe tăng Đồng minh gần như không có cơ hội sống sót.
Lính Đức học cách sử dụng Panzerfaust. Ảnh: Wikipedia.
Đối với xe tăng quân Đồng minh trong Thế chiến II, súng chống tăng vác vai Panzerfaust của phát xít Đức là một trong những vũ khí nguy hiểm nhất, chỉ xếp sau pháo diệt tăng cỡ nòng 88 mm, theo National Interest.
Khẩu súng chống tăng không giật vác vai Panzerfaust được tập đoàn HASAG của Đức phát triển và chế tạo lần đầu vào năm 1943 với tên gọi Panzerfaust 30M Klein nhằm đối phó với lực lượng xe tăng Liên Xô. Cũng trong năm 1943, HASAG cho ra mắt biến thể cải tiến đầu tiên sử dụng đầu đạn lớn hơn để tăng khả năng xuyên giáp.
Súng Panzerfaust có trọng lượng 3,25-8 kg, chiều dài trên một mét, sử dụng cỡ đạn từ 101 đến 149 mm, có thể xuyên thủng lớp giáp thép dày 150-220 mm. Đức sản xuất bốn biến thể gồm Panzerfaust 30M Klein, Panzerfaust 30M, Panzerfaust 60M và Panzerfaust 100M.
Theo chuyên gia quân sự Robert Beckhusen, súng Panzerfaust có thể phóng đạn với vận tốc 45-60 m/s, tầm bắn 60-100 m ở các biến thể Panzerfaust 60M và Panzerfaust 100M. Do tầm bắn hạn chế nên bộ binh Đức thường phải bí mật tiếp cận sát mục tiêu để khai hỏa. Cũng vì giới hạn này mà các đội lính chống tăng Đức chỉ phát huy hiệu quả tối đa trong môi trường đông đúc, nhiều vật cản như thành phố hoặc rừng rậm.
Cơn ác mộng với xe tăng Đồng minh
Theo Beckhusen, một lính Đức trang bị súng Panzerfaust có thể bắn thủng xe tăng quân Đồng minh, kích nổ bình nhiên liệu hoặc đạn dược, tiêu diệt kíp lái bên trong. Kíp tăng chỉ có vài giây để thoát khỏi chiếc xe tăng trúng đạn. Ngay cả khi kịp thoát thân, họ vẫn bị bỏng nặng.
Stuart Hills, một sĩ quan quân đội Anh, là người đã chứng kiến uy lực khủng khiếp của Panzerfaust trong các trận đụng độ đầu tiên ở miền bắc nước Bỉ, trước thời điểm diễn ra chiến dịch Market Garden.
"Xe tăng Sherman của tôi và ba xe khác cùng với đội kỵ binh Sherwood Ranger Yeomanry tấn công thọc sâu vào thành phố Gheel của Bỉ ngày 9/9/1944. Khi trời sáng, một chiếc Sherman cạnh xe tôi bỗng phát nổ và bốc cháy do trúng đạn từ Panzerfaust. Lái xe tử trận, trong khi trưởng xe Jimmy McWilliam kịp nhảy ra ngoài nhưng bị bỏng nặng", Hills viết trong hồi ký.
"Thông thường, chỉ nhờ vào may mắn, bạn mới có thể sống sót khi bị trúng các phát bắn trực tiếp của Panzerfaust. Đầu óc tôi hoảng loạn khi ở vị trí gần nhất, chứng kiến điều đã xảy ra với Jimmy và có thể tôi là nạn nhân kế tiếp. Bởi ở trong xe Sherman, tôi không thể xác định được bất kỳ mục tiêu hay hướng tấn công", Hills kể lại.
Một mảnh đạn sượt qua trán Hills, đánh văng mũ bảo hiểm của ông, nhưng không gây thiệt hại nào khác cho kíp tăng.
Lái xe của Hills cho biết đã nhìn thấy lính bộ binh Đức một giây trước khi quả đạn khai hỏa. Chiếc tăng Sherman của Hills bị vỡ tung lớp giáp bên phải, thủng một lỗ qua bánh xích. Nếu có đầy đủ kíp lái 5 người, lái phụ chắc chắn thiệt mạng, hoặc ít nhất cũng mất chân phải.
Những xe tăng sống sót trong đội kỵ binh Sherwood Rangers Yeomanry rút lui khỏi thành phố Gheel không lâu sau đó.
Theo World Gun, Panzerfaust là một trong số rất nhiều vũ khí mang tính cách mạng của phát xít Đức trong Thế chiến II. Nó trở thành hình mẫu cho mọi dự án vũ khí chống tăng vác vai sau này, trong đó có súng chống tăng đầu tiên của Liên Xô thời hậu chiến là RPG-2.
Đức đã sản xuất vài triệu súng Panzerfaust, khiến nhiều xe tăng Đồng minh bị tiêu diệt bởi loại vũ khí có bề ngoài thô kệch này trước khi bị quân Đồng minh và Hồng quân Liên Xô đánh bại hoàn toàn.
Theo Duy Sơn (Vnexpress)
Dự án tàu ngầm góp phần đẩy phát xít Đức đến bờ vực sụp đổ Phát xít Đức chế tạo tàu ngầm tối tân Type XXI để xoay chuyển tình thế, nhưng đây lại là thất bại lớn nhất góp phần khiến họ sụp đổ. Chiếc U-3008 trong một chuyến hành trình trên biển. Ảnh: Wikipedia. Ngày 4/5/1945, chiếc tàu ngầm hiện đại nhất thế giới của phát xít Đức bí mật tiếp cận một tuần dương hạm...