Trà của người việt
Trà từ lâu đã trở thành thứ nước uống thân thuộc của người Việt từ Bắc vào Nam, từ nông thôn tới thành phố, đâu đâu chén trà cũng là để mở đầu câu chuyện.
Nếu có dịp về vùng thôn quê miền Bắc bạn sẽ thấy các cụ già sáng ra chưa kịp làm gì đã vội đun ấm nước sôi, vò chè xanh hãm nước uống. Hay ở thành phố thì mỗi khi nhà có việc chén trà là thứ nước không thể thiếu. Pha trà tiếp khách đã trở thành một thói quen, cử chỉ văn hóa lâu đời của người Việt.
Việt Nam có rất nhiều loại trà khác nhau từ trà xanh, trà khô, trà sen… cho tới những loại trà được cách tân theo nhu cầu và cải tiến xã hội như trà gừng, trà atisô, trà hoa cúc, trà linh chi…Nhưng được yêu thích và dùng phổ biến trong đời sống hàng ngày của người dân Việt vẫn là các loại trà dưới đây:
Trà xanh (chè xanh)
Trà xanh hay còn gọi là chè xanh, từ lâu đã phổ biến trên khắp các vùng miền Việt Nam. Đâu đâu người ta cũng thấy chè xanh hiện diện, thứ nước uống mà ai ai cũng có thể dùng, vừa để giải khát, giải nhiệt, chống ung thư rất tốt.
Lá chè xanh – ảnh Đoàn Xuân
Ở thôn quê (phổ biến nhất là miền Bắc) trước kia thường mỗi nhà hay có một hàng chè trồng cuối vườn, để hàng ngày hái lá hãm nước uống.
Video đang HOT
Ấm tích hãm chè xanh – ảnh Đoàn Xuân
Chè xanh chỉ việc hái xuống, rửa sạch, vò nhẹ (xé nhỏ) cho vào trong ấm tích (làm bằng sành), châm nước sôi hãm khoảng 30 phút là có thể dùng được. Muốn cho nước xanh và ngon thơm thì lúc vò chè phải nhẹ tay, chỉ làm cho lá chè giập chứ không nát, và khi hãm phải ủ chè cho chín trong những ấm tích được phủ bằng khăn hay đụn rơm.
Trà khô
Trà khô cũng là một dạng của chè xanh, khác là chè khô được làm từ những búp non (hai ba lá) hái trên những đồi chè cao, rồi phơi nắng hay sấy cho khô mới dùng.
Hái chè trên đồi – ảnh nguồn thainguyen.gov.vn
Việt Nam nổi tiếng về trà khô Thái Nguyên, bởi trà được trồng và phát triển trong môi trường đồi núi, ngấm cái nguồn nước trên miền cao nên rất thơm ngon.
Vào những ngày mùa đông lạnh giá, chén trà nóng là người bạn không thể thiếu trong các gia đình của người miền Bắc. Nhiều người nghiền trà khô, uống quanh năm suốt tháng…Đặc biệt khi tết đến xuân về thì hầu như nhà nào cũng có ấm trà khô hãm nước mời khách bên cạnh dĩa mứt gừng hay các loại hạt bí.
Trà sen
Trà sen là một loại trà đại diện của văn hóa trà Việt Nam, trà hái từ những búp non (từ 1 tới 2 lá) ướp với sen. Ướp trà sen là cả một nghệ thuật tinh tế mới đạt được hương thơm như người làm mong muốn.
Cô Thơm hái sen trên đầm – ảnh Đoàn Xuân
Trung bình cứ 1kg trà khô thì cần tới 800 – 1000 bông sen. Ngày trước ở Hà Nội nổi tiếng với sen ở đầm Đồng Trị, làng Quảng Bá, Hồ Tây vì sen ở đây vừa thơm vừa to, một bông sen có từ 50 – 80 cánh. Để sen có mùi thơm thì thường người ta sẽ hái vào sáng sớm, bông sen khi đó còn chưa tỏa hết hương và thấm sương sớm… sen hái về tách lấy phần hạt gạo. Cách ướp trà thì vô cùng công phu, cứ một lớp trà lại rải thêm một lớp gạo sen. Sau cùng phủ kín bằng giấy bản (loại giấy dùng để quấn hương bài) hoặc bằng chính lá sen cuộn lại với nhau. Sau từ 3 – 4 ngày dùng sàng (dụng cụ làm bằng tre) lọc lấy chè sấy khô rồi lại tiếp tục ướp liên tục như vậy khoảng từ 5 – 6 lần tùy vào độ đậm đặc hương sen mà người làm muốn có.
Gạo sen dùng để ướp với trà – simplevietnam.com
Ngày trước khi chưa có máy sấy người ta thường làm thủ công, mỗi lần sấy chè phải sấy bằng cách cho nước sôi vào bình đậy kín, để trong thúng rồi cho chè vào xung quanh áp vào bình nước nóng. Làm như thế để hương sen kết đọng trong mỗi cánh trà lâu hơn.
Có lẽ vì thế mà khi thưởng thức trà sen ta mới cảm nhận được vị chè ngọt mà lại mát, mùi thơm nhẹ nhàng thanh tao. Một ấm trà sen có thể uống nhiều tuần trà mà hương thơm thì vẫn còn đọng lại ngan ngát hương thơm.
Theo ATVN
Tinh hoa trà sen đất Bắc
Ngẫm ra tạo hóa cũng khéo sắp đặt để giữa cái oi nồng của mùa hạ lại bung nở loài hoa man mác hương thơm dịu nhẹ làm người ta cảm thấy cái nóng dường như vơi bớt phần nào.
Đất Bắc có vùng trồng trà ngon, có loài sen hương thơm ngát, có nghệ nhân ướp trà kinh nghiệm lâu đời và có cả những người thưởng trà tinh tế. Tất cả yếu tố ấy đã hòa trộn để làm nên phong vị riêng của trà sen đất Bắc.
Có được ấm trà sen ngon, quả thực cũng lắm công phu và người ta phải kĩ tính ngay từ khâu chọn trà. Trà thường có bốn loại gọi tên theo màu nước là trà đen, trà xanh, trà đỏ, trà vàng nhưng người miền Bắc ưa trà xanh hơn cả vì hương thơm ngát, màu đẹp mắt, vị lại đậm đà. Cao cấp nhất và được xếp vào hàng "thượng đẳng" là trà san tuyết, loại búp trà có lông tuyết màu trắng, sau khi sao vẫn giữ màu trắng ở cánh trà. Búp trà này được đồng bào dân tộc vượt qua núi cao để hái từ các cây trà cổ thụ mọc ở vùng Suối Giàng, Nghĩa Lộ, Hoàng Su Phì... Vất vả là thế nhưng khi sao khô xong, trà cũng chưa được dùng ngay mà phải ủ kín trong 2-3 năm mới đem ra ướp, khi ấy lá trà mới hút được nhiều hương sen.
Sen thì vùng nào cũng có nhưng người sành trà chỉ uống trà sen được ướp bằng sen Tây hồ, bởi không rõ vì lí do gì mà sen ở đây từ xưa đến nay vẫn đượm hương hơn sen vùng khác. Vào khoảng cuối tháng Sáu đầu tháng Bảy, khi hoa sen phủ kín mặt đầm, người ta bắt đầu hái sen đem bán cho những hàng ướp trà trên phố. Sen để ướp trà không thể tùy tiện hái lúc nào cũng được mà phải hái trước lúc bình minh, bởi không khí mát lành trong sương buổi sớm mới giữ được trọn vẹn hương thơm dịu nhẹ, thuần khiết của hoa sen. Nếu hái lúc mặt trời lên, hơi nóng lan tỏa sẽ khiến sen bị bay hương, mùi thơm không còn nguyên sơ như lúc ban đầu.
Nhẹ nhàng và khéo léo xếp từng bông hoa để sen không bị dập nát, người hái sen đưa hoa xuống phố khi trời còn mờ hơi sương để giao cho những nhà ướp trà trên phố Hàng Điếu đã đặt hàng từ mấy tháng trước đó. Nhận hoa từ tay cô hái sen, người ướp trà nhanh nhẹn đem sen vào nhà trong để tách lớp cánh sen lấy phần hạt gạo rồi cứ một lớp trà lại rải một lượt gạo sen rồi phủ giấy bản lên trên để thấm nước. Người ta cư ướp như vậy liên tục 5-6 lần, mỗi lần ướp xong lại sấy khô rồi mới được ướp tiếp. Ướp như vậy thông thường một cân trà cần 800 đến 1000 bông sen, nghệ nhân trà Trường Xuân ở Hà Nội có lần phải dùng đến 1500 bông sen... Có một cách ướp khác không cần nhiều hoa như thế nhưng lại có phần cầu kì hơn. Ấy là khi chập tối người ta đi thuyền ra đầm sen, "lén" bỏ một dúm trà vào bông sen đang nở rồi nhẹ nhàng buộc chặt lại, sớm hôm sau có thể ra lấy trà về pha ngay. Người Huế hay ướp trà theo cách này và chỉ có sen ở hồ Tĩnh Tâm mới được "chọn mặt gửi vàng".
Làm ra trà sen kì công là thế nên dù cân trà có giá tiền triệu thì người ta vẫn không cho là đắt. Chỉ cần mua được trà sen chính hiệu, được pha ấm trà sen trong nhà mình thì người sành trà đã hoan hỉ trong lòng như đang sở hữu một báu vật. Trân quý từng cánh trà thơm ngát, người sành trà thong thả cảm nhận vị chát ở đầu lưỡi, vị ngọt bùi nơi cuống họng khi nhấp từng ngụm trà. Có khi gọi 1-2 người bạn thân đến chia sẻ ấm trà ngon, có khi lại độc ẩm bên hiên nhà lúc trời còn sương sớm, người sành trà vui vẻ thưởng thức hương thơm dịu nhẹ của hoa sen quyện trong làn khói mong manh của chén trà như những tao nhân mặc khách ngày xưa.
Ngẫm ra tạo hóa cũng khéo sắp đặt để giữa cái oi nồng của mùa hạ lại bung nở loài hoa man mác hương thơm dịu nhẹ làm người ta cảm thấy cái nóng dường như vơi bớt phần nào. Người xưa có câu: " Xuân xem hoa cỏ mọc. Hạ ngắm hồ sen xanh..." như thể một cách tôn vinh hoa sen là loài hoa đặc trưng của tiết trời mùa hạ, là thú vui tao nhã để tận hưởng sự ưu ái của đất trời.
Theo Tapchimonngon
Kết duyên trà hoa Sự kết hợp giữa hoa và trà như một kết duyên tình cờ, cái duyên đó đã tạo nên những chén trà ngon và từ lâu được xem là nét đẹp độc đáo trong văn hóa thưởng trà của người Việt. Ảnh:kienthuc.com.vn Trà hoa được người Việt coi trọng và yêu thích có lẽ bởi hương thơm dịu nhẹ, tự nhiên. Thưởng thức...