TP.HCM: Gỡ vướng chi trả hỗ trợ đối tượng bị ảnh hưởng dịch COVID-19
Thành phố Hồ Chí Minh mới chi hỗ trợ cho hơn 4.800 người lao động trong các doanh nghiệp bị ảnh hưởng dịch COVID-19, với tổng tố tiền gần 5 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 8%.
Trao quà hỗ trợ cho gia đình thuộc hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn bị ảnh hưởng do dịch COVID-19. (Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN)
Theo Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, việc chi trả hỗ trợ các nhóm đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 đang gặp nhiều khó khăn làm ảnh hưởng đến tiến độ và kết quả chi trả hỗ trợ chưa đạt kế hoạch đề ra.
Cụ thể, toàn thành phố mới chi hỗ trợ cho hơn 4.800 người lao động trong các doanh nghiệp phải thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc không hưởng lương ở 183 doanh nghiệp với tổng số tiền gần 5 tỷ đồng (đạt tỷ lệ 8%).
Trong khi đó theo thống kê toàn thành phố có 3.179 doanh nghiệp với tổng số 55.291 người thuộc diện này.
Thành phố cũng chi hỗ trợ cho 547/7.479 người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, với số tiền 547 triệu đồng, đạt hơn 7%; chi trả hỗ trợ 15.000/286.000 người người lao động tự do, không có hợp đồng lao động bị mất việc làm, đạt tỷ lệ 5%.
Ngoài ra, chi hỗ trợ cho 18.455 trong số 25.100 người bán vé số lưu động bị mất việc làm trong tháng 4/2020 từ nguồn tài chính của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xổ số kiến thiết thành phố.
Về hỗ trợ giáo viên, nhân viên trong cơ sở mầm non ngoài công lập, nhóm trẻ, phải nghỉ việc không hưởng lương, Thành phố có gần 2.900 cơ sở mầm non với tổng số giáo viên, nhân viên bị ảnh hưởng là 30.638 người. Trong đó, gần 15.000 người đủ điều kiện nhận hỗ trợ (có tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc), nhưng đến nay cũng chỉ mới chi hỗ trợ được gần 6.000 người với số tiền 6 tỷ đồng.
Đối với 15.800 giáo viên, nhân viên không đủ điều kiện hỗ trợ (do chưa tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc), Sở Lao động-Thương binh và Xã hội trình Ủy ban nhân dân Thành phố xem xét, đề xuất phương án hỗ trợ phù hợp.
Về hỗ trợ hộ kinh doanh có doanh thu dưới 100 triệu đồng/năm phải tạm ngừng hoạt động trong tháng 4/2020, Thành phố đã chi hỗ trợ cho 337/3.956 hộ, với số tiền 337 triệu đồng đạt tỷ lệ hơn 8%.
Đối với người sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc cho người lao động, đến thời điểm hiện tại chưa có doanh nghiệp nào đủ điều kiện để được hỗ trợ theo quy định.
Lý giải về việc chi hỗ trợ cho các đối tượng bị ảnh hưởng do dịch COVID-19 đạt kết quả không cao, ông Lê Minh Tấn, Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Thành phố cho rằng, do nhiều người sử dụng lao động chậm đối chiếu với cơ quan bảo hiểm xã hội về danh sách người lao động bị ngừng việc, hoãn việc; thậm chí không tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động… dẫn đến không đủ điều kiện được nhận hỗ trợ.
Video đang HOT
Theo ông Tấn, nguyên nhân khác là do nhiều lao động tự do, lao động chân tay, trình độ hạn chế nên dù địa phương có hướng dẫn nhưng người lao động làm hồ sơ không đúng quy định, phải điều chỉnh nhiều lần, khiến quá trình giải quyết hồ sơ chậm lại.
Bên cạnh đó, nhiều người lao động tự do từ địa phương khác đến, trong khi để được hưởng chính sách hỗ trợ thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn nơi tạm trú về việc không đề nghị hưởng các chính sách theo Nghị quyết số 42/NQ-CP, Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg tại nơi tạm trú hoặc ngược lại.
“Thực tế có 53 doanh nghiệp có nhu cầu trả lương ngừng việc nhưng phải chứng minh không có doanh thu hoặc không còn nguồn tài chính để trả lương thì mới tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. Hộ kinh doanh có doanh thu dưới 100 triệu đồng/năm, tương đương dưới 280.000 đồng/ngày thì rất khó để đảm bảo cho cuộc sống ở đô thị lớn này.”
Ông Tấn nêu ví dụ người bán phở phải bán dưới 9 tô/ngày, mỗi tô 30.000 đồng thì mới nhận được hỗ trợ…
Từ thực tiễn này, ông Tấn cho biết sẽ tập hợp những vấn đề khó khăn để kiến nghị với Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân Thành phố và các Bộ, ngành liên quan tìm giải pháp tháo gỡ, hỗ trợ cụ thể từng nhóm đối tượng nghèo, có hoàn cảnh khó khăn vượt qua dịch bệnh, ổn định cuộc sống.
Theo Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Thành phố, tính đến thời điểm hiện tại, Thành phố đã chi trả hỗ trợ cho toàn bộ 103.535 hộ nghèo, cận nghèo bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 với số tiền hơn 77,6 tỷ đồng, đạt 100%.
Đồng thời, chi trả hỗ trợ mức 500.000 đồng/người/tháng cho gần 32.500 người có công với cách mạng đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng, đạt 99,83% và hơn 124.500 người thuộc diện bảo trợ xã hội đang hưởng chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng, đạt 98,95%./.
Điều kiện, thủ tục, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp
Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp bằng 60% nhân mức lương bình quân của 6 tháng liền kề có đóng bảo hiểm thất nghiệp trước khi thất nghiệp
Với người lao động (NLĐ), điều quan trọng hơn cả khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) chính là được nhận tiền trợ cấp thất nghiệp (TCTN).
Điều kiện
Điều 49 Luật Việc làm 2013 quy định, NLĐ đang đóng BHTN được hưởng trợ cấp khi có đủ các điều kiện sau:
1. Chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) hoặc hợp đồng làm việc, trừ trường hợp: NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc trái luật; Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng.
Người lao động làm thủ tục trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm
2. Đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên: Trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn; Trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng mùa vụ hoặc công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 - 12 tháng.
3. Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng.
4. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ, trừ các trường hợp: Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cai nghiện bắt buộc; Bị tạm giam, phạt tù; Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; Chết.
Mức hưởng
Khoản 1, điều 8 Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH xác định mức hưởng trợ cấp hàng tháng của NLĐ theo công thức: Mức hưởng TCTN bằng (=) 60% nhân (x) Mức lương bình quân của 6 tháng liền kề có đóng BHTN trước khi thất nghiệp
Lưu ý, mức hưởng trợ cấp hàng tháng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở đối với người thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định hoặc không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng đối với người thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng; Trường hợp những tháng cuối trước khi thất nghiệp, NLĐ có thời gian gián đoạn đóng BHTN thì 6 tháng liền kề để tính mức hưởng trợ cấp là bình quân tiền lương của 6 tháng đóng BHTN trước khi NLĐ chấm dứt hợp đồng.
Thời gian, thủ tục nhân trợ cấp
Theo điều 50 Luật Việc làm 2013, thời gian hưởng trợ cấp được tính theo số tháng đóng BHTN, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng TCTN, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Lưu ý, thời điểm hưởng trợ cấp được tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ.
Theo điều 16 Nghị định 28/2015/NĐ-CP, hồ sơ đề nghị hưởng TCTN bao gồm: Đơn đề nghị hưởng TCTN ( theo mẫu ); Bản chính hoặc bản sao có chứng thực của một trong các giấy tờ xác nhận việc chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc (HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng); Quyết định thôi việc; Quyết định sa thải; Quyết định kỷ luật buộc thôi việc; Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng; Sổ BHXH.
Thời điểm hưởng trợ cấp được tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ
Để nhận được tiền trợ cấp, sau khi có đủ hồ sơ nêu trên, NLĐ thực hiện theo các bước sau:
1. Nộp hồ sơ hưởng TCTN. Điều 17 Nghị định 28 quy định, trong vòng 3 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng, NLĐ chưa có việc làm và có nhu cầu hưởng trợ cấp phải trực tiếp nộp 1 bộ hồ sơ theo đúng quy định cho trung tâm dịch vụ việc làm tại địa phương nơi muốn nhận trợ cấp.
NLĐ được ủy quyền cho người khác nộp hồ sơ hoặc gửi hồ sơ theo đường bưu điện nếu thuộc một trong các trường hợp: Ốm đau, thai sản có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền; Bị tai nạn có xác nhận của cảnh sát giao thông hoặc cơ sở y tế có thẩm quyền; Hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh có xác nhận của Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn.
Ngày nộp hồ sơ trong các trường hợp nêu trên là ngày người được ủy quyền trực tiếp nộp hồ sơ hoặc ngày ghi trên dấu bưu điện nếu gửi theo đường bưu điện.
2. Nhận kết quả giải quyết hồ sơ. Cũng theo Nghị định 28, cụ thể điều 18, trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, trung tâm dịch vụ việc làm xem xét, trình Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội quyết định việc hưởng TCTN của NLĐ.
Trường hợp NLĐ không được hưởng trợ cấp thì trung tâm dịch vụ việc làm thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Tổ chức BHXH chi trả trợ cấp tháng đầu tiên trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp
3. Nhận tiền TCTN tháng đầu tiên. Việc chi trả tiền TCTN cho NLĐ được thực hiện theo khoản 2, điều 18 Nghị định 28 như sau: Tổ chức BHXH chi trả trợ cấp tháng đầu tiên trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định hưởng TCTN; Tổ chức BHXH chi trả tiền trợ cấp từ tháng thứ 2 trở đi trong 5 ngày làm việc, tính từ thời điểm ngày thứ 7 của tháng hưởng trợ cấp đó nếu không nhận được quyết định tạm dừng hoặc chấm dứt hưởng trợ cấp đối với NLĐ.
Lưu ý, sau 2 ngày làm việc kể từ ngày ghi trong phiếu hẹn trả kết quả, nếu NLĐ không đến nhận quyết định về việc hưởng trợ cấp thì được coi là không có nhu cầu hưởng, trừ trường hợp bất khả kháng.
4. Thông báo tìm kiếm việc làm hàng tháng. Đây là nghĩa vụ mà NLĐ phải thực hiện để nhận được tiền trợ cấp trong những tháng tiếp theo.
Cụ thể, theo điều 52 Luật Việc làm 2013, trong thời gian hưởng trợ cấp, hàng tháng, NLĐ phải trực tiếp thông báo với trung tâm dịch vụ việc làm nơi đang hưởng trợ cấp về việc tìm kiếm việc làm, trừ các trường hợp: NLĐ ốm đau, thai sản, tai nạn có giấy xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền; Trường hợp bất khả kháng.
Hà Nội: Phê duyệt vùng bảo vệ khu vực lấy nước sinh hoạt tại Sóc Sơn Thành phố Hà Nội nghiêm cấm hành vi xả nước thải, đưa các chất thải vào vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt; xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn vào nguồn nước. Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN) Ngày 26/5, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội cho biết thành phố...