Tổng Bí thư thăm xã vùng cao biên giới của Nghệ An
Trong chuyến công tác hai ngày (4-5/9) tại Nghệ An, sáng 5/9, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn công tác Trung ương đã đến thăm, làm việc tại xã Môn Sơn, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An nghe báo cáo tình hình kinh tế- xã hội, quốc phòng-an ninh trên địa bàn và kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ cán bộ, nhân dân xã Môn Sơn, huyện Con Cuông. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)
Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, Phan Đình Trạc báo cáo tình hình cho biết sau gần hai năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, tuy có nhiều khó khăn nhưng Đảng bộ và nhân dân Nghệ An đã đạt được một số kết quả quan trọng, giữ vững ổn định kinh tế-xã hội, duy trì mức tăng trưởng hợp lý.
Năm 2011, Nghệ An có 19/25 chỉ tiêu kinh tế-xã hội đạt và vượt kế hoạch, tốc độ tăng trưởng GDP đạt trên 10%. Sáu tháng đầu năm 2012 tuy có khó khăn hơn, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP đạt hơn 5%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, nông nghiệp nông thôn có bước đột phá ban đầu hết sức quan trọng về ứng dụng công nghệ cao và chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp.
Bộ mặt đô thị, nông thôn tỉnh có nhiều khởi sắc, đời sống nhân dân được nâng lên. Nghệ An phấn đấu đến năm 2013 có năm xã, năm 2015 có 20-25% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Năm 2011 và tám tháng năm 2012, Nghệ An đã thu hút được 137 dự án với tổng vốn đăng ký trên 28.000 tỷ đồng. Thu ngân sách năm 2011 đạt gần 7000 tỷ đồng, tăng 33,9% so với năm 2010, đứng đầu ở khu vực Bắc Trung bộ và thứ 13 cả nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế-xã hội c ủa Nghệ An phát triển còn chậm và chưa tương xứng với tiềm năng. Một số vấn đề xã hội bức xúc như đất ở cho nông dân, tỷ lệ sinh con thứ ba tăng cao, ma túy mặc dù đã cố gắng giải quyết nhưng vẫn còn hạn chế. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng và đảng viên còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt quan tâm đến tình hình sản xuất và đời sống của bà con các dân tộc xã Môn Sơn, huyện Con Cuông. Là xã vùng cao biên giới, toàn xã có hơn 8600 nhân khẩu, trong đó chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái (82%) đời sống nhân dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm nghiệp.
Tổng Bí thư vui mừng phấn khởi trước những thành tựu, kết quả mà Đảng bộ, chính quyền, nhân dân xã Môn Sơn, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An đã đạt được. Cùng với đà đổi mới chung của huyện, của tỉnh và cả nước, Môn Sơn – vùng quê giàu truyền thống cách mạng cũng đang trên trên đà đổi mới.
Tuy nhiên, Nghệ An nói chung, Con Cuông, Môn Sơn nói riêng còn nhiều tiềm năng, nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, đất đai rộng lớn, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Video đang HOT
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mong muốn Đảng bộ, chính quyền, nhân dân xã Môn Sơn, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống anh hùng cách mạng, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, triển khai thực hiện tốt các Nghị quyết của Trung ương và của địa phương, phấn đấu giảm nghèo, xóa nghèo bền vững, tăng hơn nữa tỷ lệ hộ giàu, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, quyết tâm xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, Môn Sơn, Con Cuông, Nghệ An cần hết sức quan tâm củng cố và giữ vững quốc phòng an ninh, góp phần phát triển quan hệ đối ngoại, đấu tranh phòng chống các tai, tệ nạn xã hội, không ngừng chăm lo đời sống đồng bào các dân tộc, các đối tượng chính sách, người có công, bảo đảm an sinh xã hội…
Tổng Bí thư đặc biệt lưu ý, Môn Sơn, Con Cuông, Nghệ An phải làm thật tốt công tác xây dựng Đảng, gắn với công tác quần chúng, công tác dân vận, công tác dân tộc và tôn giáo, đi sâu đánh giá thực chất vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng, nhất là ở cơ sở, triển khai các biện pháp thiết thực, hiệu quả, nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên.
Bên cạnh đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trao đổi, ghi nhận một số kiến nghị, đề xuất của xã Môn Sơn, huyện Con Cuông và tỉnh Nghệ An về việc tổng kết Kết luận số 20-KL/TW ngày 2/6/2003 của Bộ Chính trị và ban hành Kết luận mới của Bộ Chính trị về một số chủ trương phát triển kinh tế-xã hội Nghệ An đến năm 2020 tăng mức hỗ trợ đầu tư đối với các công trình văn hóa, di tích lịch sử cách mạng, các công trình, dự án quan trọng về thủy lợi, y tế, giao thông… có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống dân sinh trên địa bàn.
Trước đó, tại Nghệ An, đến thăm Đồn Biên phòng 557, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh cán bộ, chiến sỹ toàn đơn vị đã hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới và xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện gắn với xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh.
Tổng Bí thư mong Đồn 557 nói riêng, lực lượng biên phòng tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, vừa bảo vệ an ninh biên giới, làm tốt công tác đối ngoại với nước bạn Lào, vừa chăm lo, giúp đỡ bà con trên địa bàn phát triển sản xuất, vươn lên thoát nghèo bền vững, xây dựng quan hệ quân-dân đoàn kết gắn bó, xứng đáng với danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ, với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Chiều cùng ngày, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn công tác đã đến dâng hương, dâng hoa, trồng cây lưu niệm tại Khu di tích Kim Liên, thăm Mộ cụ Hoàng Thị Loan, thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Theo VNE
"Chuồng học" ở Huổi Chát
Huổi Chát là một bản Mông chừng vài chục nóc nhà ở huyện nghèo Mường Tè. Hôm chúng tôi có mặt, ngày hội khai giảng đã đến gần, nhưng những gì bày ra trước mắt thật đắng lòng.
Một căn lều tranh tre nứa lá gió thổi tứ bề, xiêu vẹo, ghế gãy bàn long, ủn ỉn trong đó một cặp lợn mán, được cô giáo cắm bản giới thiệu là trường học.
Khó từ viên phấn trắng
Đường lên Huổi Chát ngoằn nghèo bò dọc theo núi. Con đường mới vỡ chỉ rộng độ 3 gang tay, bé đến mức những chiếc xe máy chỉ có thể tiến chứ không thể quay ngang để lùi, nhiều đoạn đã thụt hẳn xuống khe sâu hun hút. Đương mùa trái gió trở giời, lúa nương cây trổ cây trụi. Đường núi thăm thẳm thi thoảng lại ngoi lên một khuôn mặt trẻ con cháy nắng lấm lem bùn đất. Những đứa nhỏ 5-6 tuổi đã phải chui rừng cắt suối bói măng mò cá kiếm cơm. Gùi có khi còn to hơn cả người.
"Chuồng học" ở Huổi Chát
Bấy giờ đã giữa trưa, bữa cơm nhiều nhà chỉ có đôi bát nước suối, mấy chiếc măng to bằng quả chuối, với đĩa muối ớt. Dường như cơm có vị cay, vị mặn. Đám trẻ vừa đi nương về áo quần xốc xếch, mặt mũi nhem nhuốc túm tụm sau lách liếp đầu bản giương cặp mắt trong veo như nước suối tò mò nhìn người lạ. Cô giáo Đinh Thị Vin nói bằng tiếng Mông, vẫy chúng xuống lớp. Lớp học là một căn chòi lá rộng độ bằng 4 chiếc chiếu đôi xiêu vẹo, vách tre vọc vạch, hở hoác. Bên trong bàn ghế gãy nát, đầy mạng nhện, ngổn ngang phân heo. Không biết đã từ bao giờ, trường học của lũ trẻ đã trở thành nơi trú ngụ cho một cặp heo mán với 4 heo con. Có người trong số chúng tôi gọi đùa, giọng không ít cay đắng: "Đây là chuồng học chứ đâu phải trường học". Bế theo một học trò người Mông, cô giáo Vin loay hoay tìm chỗ đặt chân. Lớp học vùng cao khó. Khó từ chiếc bảng đen, viên phấn trắng. Khó đến cả cái sự "bắc cầu Kiều".
7 năm trước, cô giáo Đinh Thị Vin từ Phú Thọ rừng cọ đồi chè lên Mường Tè theo tiếng gọi tình nguyện. 6 năm trước, cô mang con trai 3 tuổi lên núi, để sau đó chỉ 1 năm phải vội vã đưa con về xuôi vì đứa trẻ bấy giờ chỉ học tiếng người Mông. 5 năm trước, chồng cô mì tôm cá khô tấp tểnh lên thăm vợ, lần đầu và cũng là lần cuối, để chỉ nói một câu: Về. 4 năm trước, cô suýt bị dân bản bắt đền khi giữa đêm dám đem đứa trò nhỏ bấy giờ ốm thập tử nhất sinh vượt "ngang sông Đà". 3 năm trước, cô khóc cả đêm khi đứa con đứt ruột đẻ ra giờ không còn nhận ra giọng mẹ. Gia đình là thứ gì đó mơ hồ. Có khi chỉ là mười ngày phép mỗi dịp cuối năm và những đồng tiền chắt bóp tháng tháng gửi về quê xa.
Và giờ, cô giáo người Kinh đã trở thành đứa con của Huổi Chát, của Nậm Manh, nói tiếng Mông để dạy tiếng phổ thông, ăn mèn mén, sắn khô, măng rừng, với ước mơ giản dị là một ngày nào đó sẽ có một đứa trò nhỏ người Mông thi đậu vào đại học.
Cái chữ xa xỉ và rau cháo ngày thường
Ở Huổi Chát, ở Mường Tè, ở vùng cao, việc đầu tiên của những cô giáo trước ngày khai trường, không phải là nghĩ ra các khoản thu, nghĩ ra cách thu tiền mà là "dân vận" để cha mẹ học sinh đồng ý đưa con đến trường. Không thể có giáo dục nếu như không có những ngôi trường. Nhưng cũng không thể có những ngôi trường nếu như không có học trò. Chỉ buồn là giáo dục ở vùng cao không thể tách rời chuyện miếng cơm manh áo. Huổi Chát tất nhiên không phải ngoại lệ.
Trưởng bản Lầu Giống Sì khoát khoát cánh tay quanh tứ bề rừng nham nhở xung quanh. Đấy là ông đang giải thích chuyện miếng cơm. 100% hộ sống dưới mức nghèo đói. Cả bản, không một mét vuông ruộng nước, sống nhờ vào những nương lúa. Lúa nương trông cả vào ông giời. Năm nào mưa thuận gió hòa, Nậm Chát có gạo, có ngô ăn đủ trong nửa năm. Nửa năm còn lại thì sao? Thì trông cả vào rừng. Có nghĩa, đến ngay cả chuyện căng cái bụng cũng trông vào ông giời, đủ ăn cũng đã là một niềm mơ ước khi Nậm Chát đói quanh năm chứ không chỉ là mùa giáp hạt. Trong nhà người Mông Nậm Chát, những chiếc lông gà dán trên cây cột thiêng giờ bạc thếch, xác xơ. Lâu lắm rồi người Huổi Chát không có hội, không làm gà, thậm chí không cả xuống chợ Nậm Hàng phía bờ hữu sông Đà. Cuộc sống là chuỗi những mưu sinh không buồn, chẳng vui, không quá khứ, không tương lai. Miếng cơm manh áo thúc vào sườn họ đau và bức bối đến mức ước mơ đôi khi chỉ là bát cơm có miếng thịt. Và cái chữ, vì thế cũng là thứ gì đó xa xỉ, thậm chí xa lạ.
Chúng tôi đi từ Văn Chấn, Mù Cang Chải của tỉnh Yên Bái, ngược lên Phong Thổ, Mường Tè, qua 9 điểm bản và nhận ra một điều rằng, ở bất cứ trường học vùng cao nào cái khó nhất của thầy trò nơi đây chính là bữa ăn. Vâng, đầu thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21, vẫn cứ phải nói đến chuyện miếng cơm manh áo khi mà bữa ăn phổ biến nhất của những đứa trò nhỏ vùng biên ải vẫn triền miên là cảnh "một nồi canh rau, 3 miếng đậu trắng".
Trường học là đây, khi ngày khai giảng năm học mới đã đến gần
Hôm chúng tôi đến Trường Tiểu học Huổi Luông, ở xã biên giới Huổi Luông thuộc huyện Phong Thổ, Lai Châu, điều không ai có thể quên được là bữa ăn của những đứa trẻ. Một bát tô nhựa, trong đó hổ lốn vừa cơm, vừa canh, và loi nhoi 2 miếng đậu trắng. Không thể gọi khác hơn là tô cơm tiêu điều và khốn cùng. Xin đừng ai đó trách các thầy cô giáo vùng cao. Ở những điểm trường vùng cao, cha mẹ học sinh tháng tháng góp 4kg gạo và 7.000 đồng tiền ăn mỗi tuần, thậm chí vì không có tiền, mỗi cuối tuần chỉ có 1 bó rau rừng được gửi tới. Người ta có thể mua gì khác cho lũ trẻ ngoài đậu, loại thực phẩm chỉ giúp lũ trẻ quên đi cơn đói?
Từ cách đây 2 năm, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ 120.000 đồng/tháng đối với trẻ em 5 tuổi. Tới cuối năm ngoái, Thủ tướng Chính phủ có quyết định (số 60/2011/QĐ-TTg ngày 26.10.2011), theo đó: Trẻ em mẫu giáo 3 và 4 tuổi có cha mẹ thường trú tại các xã biên giới, núi cao, hải đảo, các xã và thôn bản đặc biệt khó khăn, hoặc cha mẹ thuộc diện hộ nghèo theo quy định hoặc mồ côi cả cha lẫn mẹ không nơi nương tựa hoặc bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế, được ngân sách nhà nước hỗ trợ 120.000 đồng/tháng và được hưởng theo thời gian học thực tế, nhưng không quá 9 tháng/năm học để duy trì bữa ăn trưa tại trường.
Hiệu lực thi hành của quyết định là từ 15.12.2011. Phải mất nhiều tháng sau đó, liên bộ: GDĐT, Tài chính, Nội vụ mới có thông tư hướng dẫn quyết định 60, thực hiện chi hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em mẫu giáo. Và cũng phải bắt đầu từ 1.9.2012, các trường mới bắt đầu làm thủ tục thống kê học sinh 3 - 4 tuổi đề nghị được cấp hỗ trợ. Danh sách này sẽ qua các nấc từ xã, huyện, tỉnh và nếu như tiến độ chính xác như quy định đến từng ngày như trong thông tư thì sau 80 ngày danh sách mới về đến Bộ Tài chính và Bộ GDĐT. Còn bao giờ tiền về được tới trường thì lại phải phụ thuộc vào "tốc độ cải cách hành chính" của các bộ, các sở, các địa phương.
Chỉ biết là 8 tháng sau quyết định của Thủ tướng, ngay trước thềm năm học mới 2012-2013, ở hầu hết trong 9 điểm trường mà chúng tôi đặt chân tới của các tỉnh Yên Bái, Lai Châu, "độ trễ của chính sách" khiến cho những đồng tiền cơm lũ trẻ đáng được hưởng, thực ra vẫn bóng chim tăm cá. Câu hỏi "bao giờ" vẫn là niềm day dứt của những người làm giáo dục vùng cao. Và cái hậu của việc truy lĩnh, "dồn một cục", là các trường sẽ phải trả những đồng tiền ăn của các cháu cho cha mẹ. Không ai có thể cam kết sau đó những đồng tiền cơm 2 năm học của một đứa trẻ không biến thành một bữa nhậu của người lớn.
Chúng tôi ngồi bên mái lá Huổi Chát trong sự ngưng đọng của cả không gian và thời gian. Một lát, cô giáo tiểu học Nguyễn Thị Hường đội nắng leo núi đi tới. Hường 24 tuổi, đã lên Mường Tè 5 năm. Lớp học của cô có 18 học sinh, học từ lớp 1 đến lớp 4. Nấu ăn cho lũ trẻ ư? Hường hỏi, trong mắt có chút ngơ ngác. Chúng tôi hiểu được sự ngỡ ngàng của cô ngay sau đó. Chợ Nậm Hàng thì cách Huổi Chát vài tiếng đi bộ. Và điều quan trọng nhất là chính cô cũng triền miên rau cháo qua ngày.
Cũng còn may cho lũ trẻ vùng cao là còn có những cô giáo cắm bản, như Vin, như Hường. Một người đã từ lâu coi Huổi Chát là nhà. Một người khác đang tính chuyện xây dựng gia đình trên chính mảnh đất nghèo khó này, với người chồng, cũng là một thầy giáo cắm bản, đang ở xã xa nhất Huổi Manh, cách cô chừng 6 giờ leo núi.
Theo Vietbao
Thăm khu mộ bị lãng quên của gia đình "Công tử Bạc Liêu" Tại Bạc Liêu có một nơi mà từ lâu đã bị "bỏ quên" dù mức độ "nổi tiếng" của những con người liên quan đến nó vẫn còn mãi. Đó là khu mộ của gia đình ông Trần Trinh Trạch, một gia đình giàu có bậc nhất Nam Kỳ hàng chục năm về trước. Toàn cảnh phần mộ gia đình "Công tử Bạc...