Tôn Hoa Sen qua cơn bĩ cực
Sau giai đoạn khó khăn, Tôn Hoa Sen (HSG) đang cho thấy những tín hiệu rất tích cực.
Nhà máy của Tôn Hoa Sen.
Có thể nói giai đoạn 2016-2017 được xem là thời kỳ hoàng kim đối Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen (Tôn Hoa Sen, mã HSG). Vào thời điểm đó, lợi nhuận của Công ty tăng trưởng mạnh mẽ lên con số hàng ngàn tỉ đồng. Cụ thể, năm 2016, Công ty báo lãi sau thuế hơn 1.500 tỉ đồng, tăng 129% so với năm 2016. Đến năm 2017, lãi sau thuế có phần giảm nhẹ so với năm trước nhưng vẫn đạt hơn 1.332 tỉ đồng.
Tuy nhiên, đến năm 2018, hoạt động kinh doanh của Công ty trở nên khó khăn khi tốc độ tăng trưởng doanh thu không theo kịp chi phí đã khiến lợi nhuận của Tôn Hoa Sen lao dốc. Kết thúc năm tài chính 2018, lợi nhuận sau thuế của Công ty chỉ còn hơn 409 tỉ đồng, giảm hơn 69,2% so với năm 2017.
Đáng chú ý, bắt đầu từ năm 2017, nợ phải trả của Tôn Hoa Sen đã tăng cao lên mức hàng chục ngàn tỉ đồng. Tỉ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu năm 2017 và 2018 lần lượt là 314,7% và 312,6%, trong khi năm 2016 chỉ ở mức 198%.
Cuối năm tài chính 2018, tổng nợ phải trả của Tôn Hoa Sen lên tới hơn 16.103 tỉ đồng, trong đó hơn 14.341 tỉ đồng là các khoản vay và nợ thuê tài chính. Thời điểm năm 2018, Tôn Hoa Sen là “con nợ” của 14 ngân hàng lớn nhỏ, trong đó có các ngân hàng như VietinBank, Vietcombank, BIDV. Chi phí lãi vay của Công ty cũng lên mức cao kỷ lục 812 tỉ đồng năm 2018.
Tình hình kinh doanh khó khăn do sự biến động giá nguyên liệu đầu vào cùng với gánh nặng nợ vay đã khiến cổ phiếu HSG trên thị trường lao dốc không phanh. Sau khi tạo đỉnh hồi tháng 6.2017 quanh giá 25.220 đồng/cổ phiếu, HSG đã trên đà giảm mạnh. Mức giá thấp nhất của HSG trong năm 2018 chỉ ở mức 5.160 đồng/cổ phiếu, bằng khoảng 1/5 mức giá hồi tháng 6.2017.
Sau khi lợi nhuận của Công ty chạm đáy vào quý IV/2018 với khoản lỗ 103 tỉ đồng, sau giai đoạn mở rộng lớn về cả công suất mới lẫn mạng lưới bán lẻ, Tôn Hoa Sen tập trung vào cắt giảm chi phí vận hành, đơn giản hóa quy trình sản xuất và giảm hàng tồn kho.
Kết quả kinh doanh của Tôn Hoa Sen trong năm tài chính 2019 và 2020 cho thấy động thái này đã giúp khôi phục khả năng sinh lời của Công ty thông qua cải thiện biên lợi nhuận gộp, dù tăng trưởng doanh thu chững lại và giá thép cuộn cán nóng (HRC) biến động.
Thể hiện rõ nhất là năm 2020 khi Công ty thu về hơn 17.762 tỉ đồng doanh thu thuần, tăng nhẹ 3% so với năm 2019. Đặc biệt là biên lợi nhuận gộp của Tôn Hoa Sen đã đạt 16,8% trong năm tài chính 2020, cải thiện đáng kể so với mức 11,4-11,5% của năm 2018 và 2019.
Trong năm tài chính kết thúc vào ngày 30.9.2020, dù COVID-19 tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, Tôn Hoa Sen vẫn ghi nhận khoản lãi khủng. Công ty báo lãi sau thuế hơn 1.151 tỉ đồng, gia nhập câu lạc bộ lãi ngàn tỉ sau 2 năm ngụp lặn dưới mức 500 tỉ đồng lợi nhuận.
Video đang HOT
Trong năm 2020, Tôn Hoa Sen ghi nhận tổng sản lượng bán đạt 1,6 triệu tấn, tăng 9% so với năm 2019 chủ yếu nhờ xuất khẩu. Theo đánh giá của Công ty Chứng khoán Bản Việt (VCSC), kết quả kinh doanh tích cực của Công ty còn được dẫn dắt bởi biên lợi nhuận gộp gia tăng nhờ giá HRC phục hồi mạnh mẽ, tăng khoảng 30% từ mức thấp nhất trong 4 năm qua vào tháng 5 và nỗ lực tinh giản quy trình sản xuất. Chi phí lãi vay của Tôn Hoa Sen đã giảm từ năm tài chính 2019 khi Công ty thanh toán dần khoản nợ dài hạn, tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng lợi nhuận năm tài chính 2020.
Đi cùng với sự bứt phá mạnh về kết quả kinh doanh, giá cổ phiếu HSG trên thị trường cũng trở lại đường đua. Sau khoảng 17 tháng giao dịch dưới mệnh giá (10.000 đồng/cổ phiếu) và chạm đáy 4.150 đồng/cổ phiếu vào tháng 3.2020, cổ phiếu HSG đã chính thức vượt mốc 10.000 đồng/cổ phiếu vào tháng 5.2020. Kể từ đó đến nay, giá cổ phiếu HSG liên tục có những diễn biến tích cực và hiện được giao dịch quanh mức 17.800 đồng/cổ phiếu, tăng gần 329% kể từ vùng giá thấp nhất của năm 2020.
Nhận định chung về ngành thép, ông Trịnh Khôi Nguyên, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), cho biết, mặc dù ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 gây khó khăn lớn cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thép, khiến nhiều doanh nghiệp trong nước không đạt được mức tăng trưởng như những năm trước, nhưng cũng có một số tín hiệu đáng mừng cho ngành trong giai đoạn này.
Một trong số đó được ông Nguyên nhắc đến là “có rất nhiều nhà máy thép carbon liên hợp do Trung Quốc đầu tư ở ASEAN và Việt Nam trong khi tiềm năng tiêu thụ thép ở các nước này sẽ tăng lên đến 7% trong khu vực vào năm 2021″.
Cổ phiếu ngành điện: Nhiều cơ hội đầu tư nhưng không dễ nắm bắt
Với sự thiếu hụt trầm trọng sản lượng điện, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện có nhiều cơ hội để tham gia thị trường, nhưng cơ hội là không chia đều và việc nắm bắt được cơ hội đề đầu tư.
Toàn cảnh Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2. (Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN)
Nhu cầu sử dụng điện tăng nhanh được cho là sẽ giúp tất cả các nhà máy điện hưởng lợi. Dù vậy, việc phát triển nguồn cung điện đang gặp nhiều khó khăn, sản lượng điện của doanh nghiệp thủy điện, điện gió, điện mặt trời phụ thuộc lớn vào tình hình thời tiết, trong khi lợi nhuận của doanh nghiệp điện than, điện khí chịu tác động của giá nhiên liệu. Vì vậy, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp rất khác nhau và cơ hội đầu tư vào cổ phiếu ngành điện là có nhưng không dễ nắm bắt.
Cung không theo kịp cầu
Theo Công ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam - VietinBank Securities (mã chứng khoán: CTS), Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ thiếu điện ngày càng gia tăng do nhu cầu điện tăng cao trong các năm tới (đỉnh điểm là năm 2023) vượt quá khả năng sản xuất.
Chung quan điểm, Công ty cổ phần Chứng khoán FPT - FPTS nhận định, nhu cầu tiêu thụ điện được dự báo vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh trong dài hạn. Theo số liệu của Viện Năng lượng ngày 8/7/2020 tại Hội thảo lần 1 "Quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2045" (Quy hoạch điện VIII), nhu cầu tiêu thụ điện dự kiến sẽ tăng trưởng trung bình 8%/năm trong giai đoạn 2021-2030. Động lực tăng trưởng chính trong thời gian tới vẫn sẽ đến từ sự tăng trưởng của các ngành sản xuất công nghiệp và tốc độ đô thị hóa nhanh trên toàn cả nước.
FPTS cho biết, tại Việt Nam có ba loại hình phát điện quan trọng là thủy điện, nhiệt điện than và nhiệt điện khí; trong đó, thủy điện đang là loại hình phát điện có công suất lớn nhất, chiếm 37% tổng công suất toàn hệ thống, nhiệt điện than và nhiệt điện khí chiếm lần lượt 36% và 13% tổng công suất.
Thủy điện được cho là không còn nhiều tiềm năng phát triển. Trong giai đoạn 2010-2019, Việt Nam ưu tiên phát triển nguồn thủy điện . Tổng công suất thủy điện đã tăng từ hơn 8.000 MW năm 2010 lên hơn 20.000 MW năm 2019. Tuy nhiên, tiềm năng thủy điện tại Việt Nam gần như đã bị khai thác cạn kiệt và không còn nhiều dự án thủy điện lớn có thể được xây dựng nữa.
Giai đoạn 2020-2030, Việt Nam sẽ chủ yếu tập trung phát triển nguồn nhiệt điện than. Cụ thể, theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh được Chính phủ phê duyệt năm 2016, công suất nhiệt điện than sẽ đạt 47.575 MW năm 2025, gấp 2,4 lần so với năm 2019 và chiếm 49% tổng công suất điện toàn hệ thống. Dù vậy, việc phát triển nhiệt điện than đang gặp khó khăn do nhiều địa phương không đồng thuận việc xây dựng nhà máy nhiệt điện than vì những lo ngại về ô nhiễm môi trường.
Nhiệt điện khí đang phải chờ xây dựng cơ sở hạ tầng nhập khẩu khí hóa lỏng (LNG). Do sản lượng khí khai thác trong nước đang suy giảm, các nhà máy nhiệt điện khí mới sẽ phải sử dụng nguồn nhiên liệu là khí hóa lỏng nhập khẩu. Việt Nam chưa từng nhập khẩu LNG trong quá khứ và việc nhập khẩu LNG yêu cầu phải xây dựng một chuỗi hạ tầng bao gồm cảng tiếp nhận, bồn chứa, cơ sở tái hóa khí và hệ thống đường ống dẫn khí. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kể trên đòi hỏi thời gian dài và chi phí tương đối cao.
Nguồn cung điện có nguy cơ bị thiếu hụt do các dự án nguồn điện lớn chậm tiến độ. Cũng theo Quy hoạch điện VII Điều chỉnh, để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện đang tiếp tục tăng cao, tổng công suất hệ thống điện phải đạt 60.000 MW năm 2020 và đạt 96.500 MW vào năm 2025.
Nhà máy Thủy điện Sông Ba Hạ. (Ảnh: Phạm Cường/TTXVN)
Tuy nhiên, theo kết quả rà soát của EVN, trong giai đoạn 2016-2020, tổng công suất điện có thể đưa vào vận hành chỉ đạt 15.500/21.650 MW (72%). Hầu hết các dự án điện lớn trong quy hoạch đều đang chậm tiến độ từ 1-3 năm.
Năng lượng tái tạo được thúc đẩy phát triển, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Do việc quy hoạch nguồn điện gặp nhiều vấn đề, đồng thời nhiều dự án lớn đang chậm tiến độ, các nguồn điện năng lượng tái tạo đã được thúc đẩy phát triển để bù đắp thiếu hụt và đảm bảo an ninh năng lượng.
Công suất điện năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) đến hết năm 2019 đạt 5.235 MW; trong đó, điện mặt trời đạt 4.858 MW, vượt xa mục tiêu 850 MW trước năm 2020 theo Quy hoạch điện VII Điều chỉnh.
Việc phát triển quá nhanh các dự án năng lượng tái tạo trong khi hạ tầng truyền tải không thể phát triển theo kịp đã gây ra tình trạng tắc nghẽn đường dây truyền tải và không thể giải tỏa hết được công suất điện của các dự án.
Hơn nữa, do công suất biến động mạnh và phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết nên các nguồn năng lượng tái tạo khó có thể thay thế hoàn toàn được các loại hình nguồn điện nền (thủy điện, nhiệt điện) mà chỉ là giải pháp bù đắp thiếu hụt tạm thời.
Nhu cầu sử dụng điện tăng cao, trong khi việc phát triển nguồn cung điện gặp nhiều khó khăn đang khiến Việt Nam có thể phải đối diện với nguy cơ thiếu điện ngày càng gia tăng. Theo dự báo của VietinBank Securities công suất điện trong Việt Nam sẽ tăng trưởng trung bình hàng năm 10,5% từ năm 2020 đến năm 2030. Sản lượng điện thiếu hụt sẽ lên đỉnh vào năm 2023 và giảm dần sau đó khi các nguồn phát lớn đi vào hoạt động.
Khó nắm bắt cơ hội
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), nhu cầu tiêu thụ điện quý 3 tăng do các hoạt động kinh tế-xã hội phục hồi, tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống đạt 66 tỷ kWh, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng, tổng sản lượng điện đạt 185,37 tỷ kWh, tăng 2,68%.
Thủy điện có giá bán rẻ nhất trong cơ cấu huy động của EVN nên có lợi thế trong thị trường phát điện cạnh tranh. Với điều kiện thủy văn thuận lợi, số ngày mưa nhiều hơn, sản lượng huy động từ thủy điện trong quý 3 đạt 26,83 tỷ kWh, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2020 chỉ còn giảm 7% ghi nhận 48,38 tỷ kWh.
Thực tế, tình hình thời tiết thuận lợi, nhiều doanh nghiệp thủy điện công bố kết quả kinh doanh với doanh thu và lợi nhuận quý 3 đột biến so với cùng kỳ năm trước.
Có thể kể đến trường hợp Công ty Thủy điện A Vương (mã chứng khoán: AVC) nhờ lưu lượng nước về nhiều nên sản lượng điện cao dẫn đến doanh thu thuần đạt 150,7 tỷ đồng, tăng 77,5% so với cùng kỳ năm trước; lợi nhuận sau thuế đạt 70,35 tỷ đồng, gấp 4,6 lần quý 3/2019. Trong 3 quý năm 2020, công ty lãi 53 tỷ đồng, gấp 3 lần cùng kỳ năm trước.
Dù có kết quả kinh doanh tăng trưởng vượt bậc, nhưng cổ phiếu AVC có giá gần như không thay đổi kể từ đầu năm đến nay.
Nhà máy Điện mặt trời Phước Thái 1 vừa được đưa vận hành tháng 10/2020. (Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN)
Tương tự, Công ty cổ phần Sông Ba (mã chứng khoán: SBA) có doanh thu thuần đạt 73,4 tỷ đồng, gấp 2,4 lần cùng kỳ năm trước; lãi sau thuế hơn 32 tỷ đồng, gấp 6,2 lần cùng kỳ. Dù vậy, do kết quả thấp của 2 quý đầu năm nên trong 3 quý năm 2020, công ty chỉ đạt 138,3 tỷ đồng doanh thu thuần, giảm 17% so với cùng kỳ; lợi nhuận sau thuế giảm 39% xuống 41 tỷ đồng.
Theo dõi diễn biến cổ phiếu SBA trên sàn có thể nhận thấy, cổ phiếu này dường như không có phản ứng nhiều với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. SBA vẫn "loanh quanh" trong vùng giá từ 15.000-16.000 đồng/cổ phiếu kể từ đầu năm.
Đối với các doanh nghiệp nhiệt điện trên sàn thì Công ty cổ phần Nhiệt điện Hải Phòng (HND) là quán quân về lợi nhuận. Theo đó, quý 3/2020 doanh nghiệp lãi gần 175 tỷ đồng, nâng tổng lợi nhuận sau thuế 9 tháng lên trên 920 tỷ đồng. So với quý 3 năm ngoái, Nhiệt điện Hải Phòng đã đạt mức tăng trưởng 88% về lợi nhuận. Trên thị trường chứng khoán, Cổ phiếu HND kết thúc phiên giao dịch ngày 12/11 có giá 17.900 đồng/cổ phiếu, tăng gần 42% kể từ đầu năm.
Khác với hầu hết các nhà máy nhiệt điện, lợi nhuận của HND vẫn tăng trưởng trong những tháng mưa nhiều, thị trường điện không có lợi cho nhóm nhiệt điện. Tuy nhiên, theo Công ty cổ phần Chứng khoán Bản Việt-VCSC, tình hình thủy văn năm 2021 được dự báo không mấy thuận lợi cho các nhà máy nhiệt điện nói chung và một số lợi thế về giá bán điện của HND cũng không còn được duy trì.
Ở chiều ngược lại, Công ty cổ phần Nhiệt điện Cẩm Phả (mã chứng khoán: NCP) có doanh thu quý 3/2020 tăng 34% so với cùng kỳ năm 2019, nhưng vẫn tiếp tục lỗ gần 53 tỷ đồng. Số lỗ này được ghi nhận đã giảm so với con số hơn 115 tỷ đồng cùng kỳ năm ngoái.
Luỹ kế 9 tháng năm 2020, doanh thu công ty nhiệt điện này đạt 3.097 tỷ đồng, tăng nhẹ so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế âm 116,2 tỷ đồng, con số này tăng mạnh so với số lỗ hơn 79,7 tỷ đồng cùng kỳ năm trước.
Tính đến thời điểm hết tháng 9/2020, số lỗ lũy kế của NCP đã lên tới 1.189 tỷ đồng. Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu NCP lại tăng tới hơn 17,6% kể từ đầu năm.
Như vậy có thể nhận thấy, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp điện là rất khác biệt và giá cổ phiếu điện cũng khó đoán định. Với sự thiếu hụt trầm trọng sản lượng điện, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện có nhiều cơ hội để tham gia thị trường, nhưng cơ hội là không chia đều và việc nắm bắt được cơ hội đề đầu tư vào cổ phiếu ngành điện là không dễ dàng./.
VCSC: Quý IV GVR dự thu trên 1.800 tỷ đồng từ nguồn 'thu nhập khác' Theo nhận định của Chứng khoán Bản Việt (VCSC), dự kiến trong quý IV Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (HoSE: GVR) sẽ nhận được khoản bồi thường 540 tỷ đồng từ chuyển đổi đất cao su cho đại dự án sân bay quốc tế Long Thành giai đoạn 1 và 1.300 tỷ đồng từ thanh lý gỗ cây cao su....