Tổ chức sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
Để đẩy mạnh tổ chức sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai rà soát, điều chỉnh, bổ sung chiến lược, quy hoạch ngành, lĩnh vực để thống nhất với Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Sáng 5/6, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm mô hình làm kinh tế giỏi nuôi trồng chế biến xuất khẩu nông sản do hội viên Hội Người cao tuổi tỉnh Hải Dương làm chủ tại Hợp tác xã Tân Minh Đức. Ảnh:Thống Nhất/TTXVN
Tổ chức sản xuất và xây dựng liên kết chuỗi giá trị
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan, việc điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng chuỗi liên kết chặt chẽ, đồng bộ giữa người sản xuất với các doanh nghiệp trong chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Tổ chức nghiên cứu, dự báo cung cầu thị trường, cung cấp kịp thời cho các địa phương, doanh nghiệp và người dân điều chỉnh sản xuất phù hợp. Tìm kiếm thị trường mới, đẩy mạnh đàm phán mở cửa thị trường.
Cũng theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, ngành nông nghiệp cũng nghiên cứu và tham mưu Chính phủ ban hành chính sách mới để thu hút đầu tư tư nhân vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là đầu tư vào các khâu chế biến, bảo quản nâng cao giá trị gia tăng thương phẩm nông sản đến tay người tiêu dùng; phát triển các hình thức liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị.
Phát triển tổ chức sản xuất theo hợp đồng và xây dựng liên kết chuỗi giá trị gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trở nên khá phổ biến. Nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã đầu tư vào các chuỗi nông sản từ sản xuất đến tiêu thụ, như đối với rau an toàn, hoa quả, cà phê, chè, thuỷ sản và nhóm hàng hoá khác. Nâng tỷ lệ nông sản chủ lực tiêu thụ thông qua liên kết sản xuất tiêu thụ nông sản từ 10% năm 2017 lên hơn 20% hiện nay; trong đó tỷ lệ hợp tác xã (HTX) nông nghiệp thực hiện liên kết, tiêu thụ nông sản cho nông dân đạt 37% (tăng 25%).
Bí thư Tỉnh ủy Sơn La Nguyễn Hữu Đông cho rằng, tổ chức liên kết sản xuất theo chuỗi ngành hàng đã khẳng định là hướng đi đúng đắn của nền sản xuất nông nghiệp hiện đại, được phát triển đa dạng về hình thức và cấp độ, đã hình thành và nhân rộng ở nhiều địa phương và nhiều lĩnh vực.
Bên cạnh đó, việc tổ chức sản xuất gắn với phát triển các vùng nguyên liệu chất lượng đạt chuẩn, tập trung, quy mô lớn, phát triển các nhóm sản phẩm chủ lực để giảm chi phí trung gian, nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh.
Video đang HOT
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành Quyết định số 1088/QĐ-BNN-KTHT ngày 25/3/2022 phê duyệt “Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022 – 2025″. Triển khai các nội dung phát triển vùng nguyên liệu, tập trung thuộc địa bàn 14 tỉnh trải dài từ Bắc vào Nam với các sản phẩm chủ lực như: Cây ăn quả, lúa gạo, cà phê, gỗ lớn rừng trồng, thủy sản (tôm). Trong kế hoạch trung hạn 2021 – 2025 bố trí 440 tỷ đồng ngân sách nhà nước (trong tổng mức vốn huy động của Đề án trên 2.200 tỷ đồng, bao gồm cả sự đóng góp của các địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân hỗ trợ hạ tầng vùng nguyên liệu phục vụ liên kết. Ưu tiên hỗ trợ hạ tầng logistics, kho bãi, silo tập trung nguyên liệu, cho các HTX phục vụ sơ chế, chế biến, phân loại, bảo quản nông sản, thúc đẩy liên kết và truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp, hợp tác công – tư.
Những tồn tại kéo dài
Nhìn nhận về những tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực này, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, vai trò của các bên tham gia hợp tác, liên kết trong chuỗi giá trị nông sản còn nhiều hạn chế (còn gần 70% HTX nông nghiệp chưa tham gia tiêu thụ nông sản, chưa làm được vai trò là cầu nối nông dân với doanh nghiệp; một số HTX có tham gia nhưng cũng ở mức độ, quy mô hạn chế. Các nhà khoa học rất khó tham gia ký hợp đồng liên kết…). Quy mô thành viên trung bình của một HTX nông nghiệp nhỏ; quy mô vốn, doanh thu của các HTX còn nhỏ, quá trình tích lũy vốn của HTX nông nghiệp diễn ra chậm.
Số lượng doanh nghiệp tham gia vào các hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ít về số lượng, quy mô nhỏ, vai trò đầu tàu của các doanh nghiệp trong việc xây dựng, duy trì và phát triển bền vững các liên kết chuỗi giá trị còn hạn chế.
Bên cạnh đó, hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân chưa bền vững, chủ yếu vẫn là thoả thuận mua bán; tổ chức các vùng nguyên liệu đạt chuẩn về chất lượng, sản xuất theo hợp đồng gắn với thị trường tiêu thụ diễn ra chậm.
Việc tiêu thụ sản phẩm còn qua nhiều khâu trung gian, hiệu quả kinh tế không cao. Việc tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh, hợp tác, liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ nông sản, thực phẩm ở nhiều địa phương còn chậm, dẫn đến sản lượng, quy mô liên kết còn ít.
Phân tích nguyên nhân của các tồn tại này, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết: Sản xuất sản phẩm nông nghiệp hiện nay còn nhỏ lẻ, trình độ hạn chế, nên khó áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn của hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến dẫn đến năng suất và chất lượng, năng lực cạnh tranh chưa được như mong muốn. Nhận thức của người dân nhiều nơi còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường, một số bộ phận còn chạy theo lợi ích trước mắt; trong khi đầu tư sản xuất nông nghiệp hiệu quả không cao, tính rủi ro lớn, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu, dịch bệnh diễn ra khó lường như hiện nay.
Ngoài ra, chính sách chưa phù hợp với điều kiện tiếp cận của HTX nông nghiệp. Luật HTX và các văn bản có liên quan còn những bất cấp, như: Quy định về chính sách đất đai chưa phù hợp, nhiều HTX chưa được hỗ trợ đất làm trụ sở, kho bãi, nhà xưởng để tổ chức sản xuất, nhất là phục vụ sơ chế, chế biến…; quy định tỷ lệ vốn góp, quy định số lượng thành viên, tỷ lệ cung ứng dịch vụ cho thành viên còn những bất cập.
Ngân sách nhà nước bố trí kinh phí hỗ trợ cho kinh tế tập thể, HTX còn ít; chưa bố trí được dòng ngân sách riêng dành cho phát triển HTX nông nghiệp. chủ yếu lồng ghép thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia và Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Nguồn kinh phí bố trí để thực hiện chính sách theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP còn rất hạn chế.
Mô hình trồng bí xanh thơm tại xã Địa Linh, huyện Ba Bể (Bắc Kạn), sản phẩm OCOP tiêu biểu được sản xuất, chế biến trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Ảnh: TTXVN
Những giải pháp khắc phục
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, ngành nông nghiệp đã trình Chính phủ ban hành Nghị quyết về phát triển HTX trong nông nghiệp phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025, với mục tiêu thống nhất nhận thức và khẳng định tầm quan trọng, vị trí của HTX nông nghiệp trong phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững.
“Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương trong cả nước nâng cao chất lượng hoạt động của HTX nông nghiệp, triển khai các giải pháp đột phá, nâng cao vai trò của cấp uỷ, chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và hỗ trợ phát triển bền vững kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp gắn với phát triển đời sống người nông dân; hướng đến tích hợp đa giá trị, tạo ra giá trị gia tăng, thu hút nguồn lực phát triển HTX”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực hiệu quả các hình thức tổ chức sản xuất, trọng tâm là HTX nông nghiệp: Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp trong định hướng phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Nâng cao chất lượng đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng trình độ, kỹ năng quản lý HTX. Gắn kết phát triển kinh tế tập thể, HTX với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Tăng cường chuyển đổi số cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã. Thí điểm xây dựng các mô hình HTX nông nghiệp điển hình.
Ông Nguyễn Thành Nam, Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Phó Thọ cho rằng khâu tổ chức sản xuất là rất quan trọng. Cần phát triển sản xuất nông nghiệp theo hợp đồng và liên kết thị trường theo chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp. Thực hiện liên kết trong sản xuất giữa nông dân với nông dân (liên kết ngang), giữa nông dân với doanh nghiệp (liên kết dọc), giảm bớt các khâu trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm, phát triển sản xuất theo nhu cầu, thị hiếu của thị trường. Thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án, dự án nâng cao vai trò vị thế của HTX trong các chuỗi giá trị và vùng nguyên liệu đạt chuẩn.
Trong khâu tổ chức lại hệ thống phân phối, cần xây dựng, củng cố và phát triển mô hình chợ đầu mối nông sản, các chợ truyền thống, hình thành các kênh phân phối bán buôn, bán lẻ, tăng cường ứng dụng công nghệ số, thương mại điện tử; tổ chức quản lý hệ thống thương lái, đảm bảo lợi ích hài hòa của các bên tham gia trong chuỗi giá trị hàng hóa; rà soát, bổ sung, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc về các cơ chế, chính sách.
Về chiến lược thị trường, Bộ trưởng Lê Minh Hoan khẳng định, phải đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ; dự báo, xác định nhu cầu thị trường; phát triển các vùng sản xuất hàng hoá theo nhóm trục sản phẩm chủ lực (cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp địa phương – Nhóm sản phẩm OCOP), xây dựng và hoàn thiện các hồ sơ vùng trồng, diện tích và địa điểm, các hàng rào kỹ thuật của nước nhập khẩu; xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu, nhất là nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý.
Thiệu Hóa hoàn thành xây dựng huyện nông thôn mới
Trong thời gian tới, huyện tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ; tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng quy mô lớn, công nghệ cao, có hình thức tổ chức sản xuất và cơ cấu kinh tế hợp lý.
Đi đôi với đó, phát triển giáo dục, y tế theo hướng chất lượng cao và chuẩn hóa, xã hội hóa; giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, xây dựng con người văn hóa, gia đình, làng, xã văn hóa.
Nông dân thị trấn Thiệu Hóa chăm sóc dưa trồng trong nhà lưới. Ảnh: Xuân Hùng
Triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (XDNTM), huyện Thiệu Hóa đã có bước đột phá rõ rệt về hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn trong sạch vững mạnh; quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đến nay, 24/24 xã đạt chuẩn NTM, Thiệu Hóa hoàn thành 9 tiêu chí huyện NTM, thu nhập bình quân đầu người đạt 46,5 triệu đồng/người/năm, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới.
Để triển khai XDNTM, năm 2011, huyện Thiệu Hóa đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia XDNTM; đồng thời ban hành quy chế hoạt động, phân công nhiệm vụ cho các thành viên. Huyện và các xã cũng đã thành lập ban quản lý Chương trình XDNTM để huy động và sử dụng các nguồn lực phục vụ cho chương trình bảo đảm theo đúng quy định và có hiệu quả cao. Để xác định lộ trình XDNTM một cách khoa học, phù hợp với điều kiện thực tế, huyện đã chỉ đạo các phòng, ban, ngành phụ trách tiêu chí hướng dẫn và phối hợp rà soát chi tiết mức độ đạt chuẩn từng tiêu chí NTM của 24/24 xã, chỉ ra những nội dung công việc cần phải hoàn thiện, từ đó xây dựng kế hoạch thực hiện, phương án huy động nguồn lực hợp lý, hiệu quả. Ngay từ khi bắt đầu triển khai thực hiện chương trình, ban chỉ đạo từ huyện đến xã đã chú trọng công tác tuyên truyền các chủ trương của Đảng, cơ chế, chính sách của Trung ương, địa phương về thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia XDNTM đến với Nhân dân.
Theo báo cáo của huyện Thiệu Hóa, tổng số vốn huy động XDNTM từ khi triển khai đến nay hơn 9.129 tỷ đồng; trong đó, ngân sách Trung ương 387,5 tỷ đồng, chiếm 4,25%; ngân sách địa phương hơn 1.351 tỷ đồng (ngân sách tỉnh 266,109 tỷ đồng, ngân sách huyện 310,661 tỷ đồng, ngân sách xã 774,593 tỷ đồng), chiếm 14,8%; vốn tín dụng 644,058 tỷ đồng, chiếm 7,06%; vốn doanh nghiệp đầu tư 170,1 tỷ đồng, chiếm 1,86%; vốn lồng ghép 111,6 tỷ đồng, chiếm 1,21% và nguồn lực huy động từ Nhân dân 6.464,595 tỷ đồng, chiếm 70,82%. Từ nguồn vốn huy động, huyện, các xã, Nhân dân đã đầu tư xây dựng mới, nâng cấp các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, như: giao thông, hệ thống điện, thủy lợi, nhà văn hóa, nhà ở..., đồng thời, đầu tư phát triển sản xuất. Trong đó, hệ thống giao thông trên địa bàn luôn được huyện quan tâm chỉ đạo, triển khai đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, mở rộng với mục tiêu từng bước phát triển đồng bộ, hợp lý, có tính kết nối toàn diện với tuyến quốc lộ, đường tỉnh và giữa các trung tâm hành chính huyện, xã, thôn, các cụm kinh tế trên địa bàn... Trong đó, bằng nguồn vốn ngân sách huyện, những năm qua, các tuyến đường huyện đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng, chiều rộng nền đường 6,5m đến 12m, chiều rộng mặt đường 5,5m đến 7m, bảo đảm đạt tiêu chuẩn đường cấp V, cấp VI đồng bằng, phù hợp với quy hoạch được duyệt. Hệ thống cầu, cống trên các tuyến đường được xây dựng kiên cố, phù hợp với đường quy hoạch; hệ thống biển báo, cọc tiêu được lắp đặt trên hầu hết các tuyến giao thông góp phần bảo đảm an toàn, thuận tiện cho các phương tiện lưu thông. Đi đôi với đó, hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn luôn được huyện quan tâm đầu tư sửa chữa, nâng cấp và xây mới theo đúng quy hoạch, kế hoạch, thiết kế được duyệt, góp phần phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Từ năm 2011 đến nay, trên địa bàn huyện đã đầu tư xây dựng kiên cố 35,96 km kênh tưới tiêu liên xã; xây dựng mới 13,7 km kè, 17 cống lớn qua đê, 40,9 km đê; nâng cấp, tu bổ, sửa chữa, thay thế máy móc, thiết bị vận hành các trạm bơm tưới, tiêu. Đi đôi với đó, hệ thống điện trên địa bàn được đầu tư xây dựng theo quy hoạch, bảo đảm cấp điện an toàn, đạt tiêu chuẩn và nhu cầu sử dụng điện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Bệnh viện đa khoa huyện được đầu tư cơ sở vật chất khang trang, với đầy đủ các trang thiết bị y tế đáp ứng yêu cầu của bệnh viện hạng II và nhu cầu khám, chữa bệnh cho Nhân dân. Trung tâm y tế huyện đã tổ chức thực hiện tốt các hoạt động y tế dự phòng, dân số, kiểm soát bệnh truyền nhiễm... Đến nay, tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn đã được UBND tỉnh công nhận đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế theo quy định của Bộ Y tế. Trung tâm Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch huyện được xây dựng bảo đảm diện tích theo quy định. Đi đôi với đó, nhà tập luyện và thi đấu thể thao, trung tâm hội nghị huyện, trung tâm văn hóa - thể thao huyện, sân vận động huyện... được đầu tư xây dựng kiên cố, khang trang. Hiện toàn huyện có 3 trường THPT; trong đó, có 2/3 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Điểm nhấn cho sự nỗ lực và đạt được nhiều kết quả vượt bậc trong quá trình XDNTM của huyện Thiệu Hóa, đó là phát triển kinh tế. Sau nhiều năm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến nay, trên địa bàn đã hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung đối với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của huyện, bảo đảm có quy mô đất đai, mặt nước lớn, liên xã theo quy định và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; áp dụng đồng bộ quy trình sản xuất bảo đảm an toàn thực phẩm và phát triển bền vững. Thực tế cho thấy, ngày càng xuất hiện nhiều mô hình liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Trong đó, năm 2021, toàn huyện đã tổ chức liên kết sản xuất 2.310 ha cây trồng các loại (lúa, ngô, ớt, khoai tây, rau màu các loại...) với các doanh nghiệp, như: Công ty Giống cây trồng Trường Thành, Công ty Xuất nhập khẩu ớt Phú Sỹ, Công ty TNHH Giống cây trồng Việt Thành, Công ty TNHH MTV bò sữa Thanh Hóa, Công ty CP Mía đường Lam Sơn... Đi đôi với đó, trên địa bàn huyện cũng đã hình thành được 5 vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, với tổng diện tích 3.514,8 ha, như: vùng lúa năng suất, chất lượng, hiệu quả cao diện tích 2.600 ha, vùng sản xuất rau an toàn tập trung 36 ha sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, vùng sản xuất ớt xuất khẩu diện tích 205 ha, vùng sản xuất khoai tây gắn với tiêu thụ sản phẩm diện tích 25 ha, vùng sản xuất ngô ngọt và ngô thương phẩm gắn với tiêu thụ sản phẩm diện tích 648,8 ha. Đến nay, 37/37 HTX dịch vụ nông nghiệp có hợp đồng liên kết, tiêu thụ sản phẩm lúa, ngô, ớt, khoai tây, rau màu các loại... với các doanh nghiệp, cửa hàng thực phẩm sạch, cửa hàng an toàn thực phẩm. Qua thực hiện tích tụ, tập trung đất đai, trên địa bàn đã hình thành nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, như: mô hình cây ăn quả tập trung (chủ yếu là cây bưởi), hiệu quả kinh tế đạt 130 triệu đồng/ha/năm; mô hình chăn nuôi thỏ - sản xuất nấm mộc nhĩ - trồng măng tây của trang trại Trường Thành, xã Tân Châu, hơn 10 ha, doanh thu 400 triệu đồng/ha/năm, lợi nhuận 200 triệu đồng/ha/năm; mô hình ngô sinh khối tập trung xã Thiệu Thịnh, với quy mô trên 100 ha, doanh thu 170 - 200 triệu đồng/ha/năm, lợi nhuận 100 triệu đồng/ha/năm. Để nông nghiệp phát triển, huyện quan tâm chỉ đạo đưa cơ giới hóa vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy chuyển dịch lao động trong nông thôn. Đến nay, trên địa bàn các xã có 325 máy làm đất, 75 máy cấy; 115 máy gặt đập liên hợp; 100% diện tích gieo trồng được cơ giới hóa khâu làm đất, toàn huyện có 8 cơ sở sản xuất mạ khay, cấy máy, hàng năm có từ 2.430 ha được áp dụng gieo mạ khay cấy máy; có 90% diện tích được cơ giới hóa khâu thu hoạch... Những năm gần đây, huyện chỉ đạo chuyển mạnh từ chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ; đa dạng hóa các con nuôi, nhất là con nuôi đặc sản có giá trị kinh tế cao. Toàn huyện có 17 trang trại chăn nuôi đạt chuẩn theo Thông tư số 02/2020/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đến nay, huyện đã có 2 sản phẩm được UBND tỉnh công nhận sản phẩm OCOP 4 sao, đó là: trống đồng Quý Châu, trống đồng Toàn Linh.
Đi đôi với sản xuất nông nghiệp, huyện Thiệu Hóa tập trung chỉ đạo phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và đã trở thành ngành chủ lực tạo ra giá trị sản xuất, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội và XDNTM. Năm 2021, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng ước đạt 5.646 tỷ đồng, tăng 16,9% so với năm 2020. Hiện trên địa bàn có 284 doanh nghiệp và 1.904 cơ sở sản xuất công nghiệp (tăng 117 doanh nghiệp, 190 cơ sở sản xuất so với năm 2015), tạo việc làm cho khoảng 6.352 lao động. Để tạo thuận lợi thu hút đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, Cụm công nghiệp thị trấn Vạn Hà (tại xã Thiệu Phú), đã được UBND tỉnh thành lập tại Quyết định số 3287/QĐ-UBND ngày 30-8-2018, với diện tích 17,5 ha, tổng mức đầu tư hạ tầng kỹ thuật khoảng 104 tỷ đồng và dự kiến hoàn thành, đi vào hoạt động trong năm 2022. Bên cạnh đó, trên địa bàn có 3 làng nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận: Làng nghề đúc đồng Trà Đông, xã Thiệu Trung; làng nghề bánh đa Đắc Châu, xã Tân Châu; làng nghề ươm tơ, dệt nhiễu Hồng Đô, thị trấn Thiệu Hóa. Hệ thống thu gom, xử lý chất thải trên địa bàn đạt tiêu chuẩn; 100% các cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ (công nghiệp, làng nghề, chăn nuôi, chế biến lương thực - thực phẩm) thực hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện được giữ vững ổn định, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ, không hình thành điểm nóng phức tạp về an ninh trật tự.
Đồng chí Nguyễn Thế Anh, Chủ tịch UBND huyện Thiệu Hóa, cho biết: Quy hoạch xây dựng vùng huyện Thiệu Hóa, đến năm 2045 đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 5588/QĐ-UBND ngày 30-12-2020. Công tác quản lý quy hoạch, thực hiện quy hoạch luôn được huyện Thiệu Hóa quan tâm, chú trọng thực hiện làm cơ sở thu hút đầu tư xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, thời gian tới, huyện tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ; tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng quy mô lớn, công nghệ cao, có hình thức tổ chức sản xuất và cơ cấu kinh tế hợp lý. Đi đôi với đó, phát triển giáo dục, y tế theo hướng chất lượng cao và chuẩn hóa, xã hội hóa; giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, xây dựng con người văn hóa, gia đình, làng, xã văn hóa. Tiếp tục chỉnh trang cảnh quan, bảo đảm vệ sinh môi trường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện đủ sức lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu, hướng đến đô thị hóa nông thôn, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Phấn đấu đến năm 2025, thu nhập bình quân đầu người đạt 70 triệu đồng/người/năm; mỗi xã có ít nhất 1 thôn đạt tiêu chí NTM kiểu mẫu, toàn huyện có 50 thôn kiểu mẫu; 12 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 4 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu... Để đạt mục tiêu đề ra, huyện Thiệu Hóa tập trung tuyên truyền những thành quả đạt được trong XDNTM, qua đó, tạo niềm tin, cổ vũ, động viên Nhân dân tiếp tục hăng hái thực hiện chương trình, coi XDNTM là công việc lâu dài. Đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động và thành lập các HTX kiểu mới trong nông nghiệp; đồng thời, thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Tăng cường thu hút các doanh nghiệp, thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo nâng cao chất lượng lĩnh vực văn hóa - xã hội; trong đó, tập trung xây dựng gia đình văn hóa, con người văn hóa có tri thức, đạo đức và trách nhiệm với cộng đồng, đất nước. Tăng cường đầu tư bổ sung cơ sở vật chất trường học, trang thiết bị dạy học, bảo đảm duy trì, nâng cao chất lượng trường chuẩn quốc gia. Đầu tư trang thiết bị nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho Nhân dân. Thường xuyên đầu tư, chỉnh trang cảnh quan, môi trường trong các cơ sở y tế bảo đảm sáng - xanh - sạch - đẹp theo hướng đô thị hóa... Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về an ninh trật tự, bảo đảm an ninh trật tự nông thôn luôn được duy trì, giữ vững.
Cơ hội quảng bá nông sản của nông dân Bình Phước Ngày 6/6, Hội Nông dân tỉnh Bình Phước đã bế mạc Hội chợ trái cây và hàng nông sản tỉnh lần thứ V. Mỗi ngày, hội chợ thu hút trên 5.000 lượt khách đến tham quan, mua sắm. Gian hàng điều chế biến sâu về hạt điều trưng bày tại hội chợ. Hội chợ diễn ra từ ngày 2/6, đã tạo cơ hội...