Tình trạng thoái vốn ở các nước mới nổi mạnh hơn cả thời kỳ 2008
Các nhà đầu tư nước ngoài đã rút 83,3 tỷ USD từ các thị trường mới nổi trong tháng Ba và tình trạng thoái vốn đang diễn ra mạnh hơn so với thời kỳ tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Một cơ sở lọc dầu ở al-Buraqah, Libya. (Ảnh: AFP/TTXVN)
Tại các nước như Nam Phi hay Thổ Nhĩ Kỳ, khủng hoảng lại đang xuất hiện sau khủng hoảng, khi sản xuất đình trệ và hàng tỷ USD được rút ra trong khi ngành du lịch tê liệt do tác động của dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19.
Trong những ngày qua, Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Kristalina Georgieva đang phân bổ hàng triệu USD cho nhiều nước trên thế giới, trong đó 438 triệu USD phân bổ cho Senegal, 174 triệu USD dành cho Albania, 121 triệu USD cho Kyrgyzstan, 1 tỷ USD cấp cho Ghana…
Người đứng đầu IMF liên tiếp cấp những khoản tín dụng khẩn cấp để các nước ứng phó với đại dịch COVID-19, nhưng bà vẫn còn một danh sách dài cần làm phía trước.
Hơn 100 quốc gia mới nổi đã nộp đơn xin hỗ trợ tài chính từ IMF. Theo bà Georgiewa, đây là thời kỳ đen tối nhất của nhân loại và điều cần làm lúc này là “bảo vệ những nước dễ bị tổn thương nhất.”
IMF đã quyết định xóa nợ cho 25 nước nghèo nhất thế giới như Afghanistan, Haiti, Mali và đã phân bổ sẵn 500 triệu USD cho chương trình cứu trợ này.
Tuy nhiên, đây chỉ là một phần rất nhỏ so với những thiệt hại thực sự về kinh tế mà dịch bệnh gây ra cho các nước đang phát triển và mới nổi.
Theo Viện Tài chính Quốc tế (IIF), các nhà đầu tư nước ngoài đã rút 83,3 tỷ USD từ các thị trường mới nổi trong tháng Ba và tình trạng thoái vốn đang diễn ra mạnh hơn so với thời kỳ tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 và trong thángTư này, tình hình cũng không có gì khả quan hơn.
Ông Mauro Toldo, chiến lược gia trưởng phụ trách các thị trường mới nổi của Ngân hàng DekaBank (Đức), nhấn mạnh: “Tất cả các thị trường mới nổi đều bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng này. Không ai có thể dự đoán sẽ khó khăn ra sao và kéo dài bao lâu.”
Ông Toldo nhận định chưa có một khủng hoảng nào trong những thập kỷ qua lại gây hậu quả bao trùm nghiêm trọng như lần này.
Một mặt, giá dầu thô, giá đồng và các nguyên liệu thô khác vốn là nguồn thu chính của các nước xuất khẩu như Nigeria, Chile và Brazil đang lao dốc. Mặt khác, ngành du lịch cũng tê liệt và đây là đòn giáng mạnh vào các quốc gia như Thái Lan hay Thổ Nhĩ Kỳ.
Chưa hết, chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu cũng bị đình trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia như Bangladesh và Mexico.
Trong khi đó, chưa rõ virus SARS-CoV-2 sẽ còn ảnh hưởng mạnh như thế nào đến các nước, cuộc sống sẽ còn bị phong tỏa tới bao giờ và sẽ còn có bao nhiêu người bị lây nhiễm hay tử vong.
Video đang HOT
Theo Thủ tướng Pakistan Imran Khan, đây là một cuộc “đi trên dây” giữa một bên là lệnh phong tỏa cần thiết để làm chậm tốc độ lây lan của dịch COVID-19 và một bên phải đảm bảo để mọi người không chết đói và nền kinh tế không sụp đổ.
Trong lúc này, nhiều thị trường mới nổi bỗng nhiên trở nên yếu hơn. Các thị trường mới nổi đã đạt thịnh vượng trong nhiều năm và tạo đà cho kinh tế toàn cầu.
Hàng loạt máy bay của Hãng hàng không Thái Lan nằm chờ tại sân bay Suvarnabhumi ở Bangkok ngày 3/4/2020, trong bối cảnh chính phủ ban bố lệnh cấm các chuyến bay chở khách nhập cảnh nhằm ngăn ngừa dịch COVID-19 lây lan. (Ảnh: AFP/TTXVN)
Họ đã thu hút vốn nước ngoài trên quy mô lớn, thường qua hình thức giao dịch ngoại hối (carry trade), của các nhà đầu tư từ các nước công nghiệp – nơi lãi suất và lợi nhuận quá thấp. Sự bùng nổ đã tạo ra một tầng lớp trung lưu mới ở nhiều thị trường mới nổi, nhưng điều đó cũng kéo theo những núi nợ.
Theo IIF, nợ của các thị trường mới nổi đã tăng gấp đôi kể từ năm 2010, lên khoảng 72.000 tỷ USD. Theo chuyên gia Toldo, giờ đây hình thức giao dịch ngoại hối carry trade lại đang quay vòng. Nhiều nhà đầu tư rút lại tiền từ các nước Nam bán cầu. Kết quả là đồng nội tệ mất giá, đặc biệt ở các nước Nam Phi, Mexico hoặc Indonesia.
Và điều đó cũng sẽ khiến các nước khó khăn để trả nợ đắt hơn bằng đồng USD. Bên cạnh đó, các tổ chức xếp hạng tín dụng đã giảm mức tín nhiệm của một số quốc gia, bao gồm Nam Phi, Mexico và Nigeria.
Do vậy, phí bảo hiểm rủi ro cho trái phiếu của nhiều nước tăng vọt và điều đó sẽ gây tốn kém hơn cho các chính phủ trong việc huy động dòng tiền mới để trả nợ cũ.
Trong khi đó, đã có quốc gia đầu tiên thông báo vỡ nợ do mất khả năng thánh toán khoản nợ đáo hạn. Những khó khăn cũng đang trở nên rõ ràng ở khu vực Mỹ Latinh. Chính phủ Argentina, vốn đang trên bờ vực phá sản trước dịch COVID-19 đã tuyên bố phong tỏa toàn quốc và đình chỉ tất cả các khoản thanh toán từ trái phiếu nội địa trong năm nay.
Ecuador, nơi dịch COVID-19 đang hoành hành, đang đề nghị các chủ nợ giảm lãi suất và giãn nợ. Trong khi đó, tại Venezuela, quốc gia có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới, xăng dầu lại đang trở nên khan hiếm. Người ta có thể thấy trên mạng xã hội rất nhiều video quay cảnh hàng km xe hơi chờ chực trước các trạm xăng.
Tuy nhiên, không phải tình hình kinh tế ở mọi nơi đều ảm đạm như vậy. Chuyên gia Toldo cho biết, các thị trường mới nổi như Nga, Việt Nam hay Malaysia được chuẩn bị tốt hơn nhiều.
Một phần là những nước này không nợ nhiều, hoặc chủ yếu đó là những nhà cho vay nội địa. Một số nước thậm chí có thể xây dựng nguồn dự trữ cho thời kỳ khủng hoảng trong những năm đạt thịnh vượng.
Đó là Trung Quốc, nước đã từ một quốc gia đang phát triển trở thành một siêu cường và thậm chí có thể kết thúc năm khủng hoảng toàn cầu này với một chút tăng trưởng. Bắc Kinh đã trở thành một trong những chủ nợ lớn nhất của các nước mới nổi trong những năm gần đây.
Bắc Kinh cũng đã đưa ra quan điểm khi đại diện các nước thảo luận trực tuyến về các khoản nợ của những quốc gia nghèo nhất tại Hội nghị mùa Xuân của IMF và Ngân hàng thế giới (WB).
Người đứng đầu IMF Georgiewa và Chủ tịch WB David Malpass đã đạt được mục tiêu đầu tiên khi nhóm Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) và các chủ nợ, theo ý tưởng của IMF và WB, đã quyết định giãn nợ cho những nước nghèo, cho phép 77 quốc gia nghèo nhất giãn nợ 12 tháng tiền lãi và gốc tổng cộng 14 tỷ USD.
Số tiền này, so với gói cứu trợ của những nước như Đức và Mỹ không thấm vào đâu, song là sự khác biệt lớn với những nước nghèo nhất thế giới./.
Mạnh Hùng
SCIC thoái vốn tại Traphaco: Thị giá khó trở lại thời "hoàng kim"
Trong danh sách hơn 80 doanh nghiệp nằm trong kế hoạch thoái vốn 2020 của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), CTCP Traphaco (TRA) được giới đầu tư chú ý. Câu hỏi đặt ra là liệu đợt thoái vốn này có dẫn tới một đợt tăng giá cổ phiếu TRA như đã từng xảy ra cách đây gần 3 năm khi Mekong Capital và Vietnam Holdings thoái vốn tại đây?
Hiện cơ cấu cổ đông của TRA khá cô đặc khi 3 cổ đông tổ chức đã sở hữu 75% cổ phần, trong đó SCIC sở hữu xấp xỉ 36%, còn 2 cổ đông nước ngoài khác là Magbi Fund Ltd. và Super Delta Pte., Ltd. đại diện cho quỹ đầu tư Mirae Asset và Công ty Dược phẩm Daewoong Pharmaceutical sở hữu khoảng 40%.
Ban lãnh đạo TRA sở hữu gần 5% cổ phần. Như vậy, khối lượng cổ phiếu tự do lưu hành của TRA chỉ có khoảng xấp xỉ 8 triệu đơn vị.
Biến động giá trong biên độ hẹp và cơ cấu cổ đông cô đặc là lý do giải thích cho việc thanh khoản cổ phiếu TRA ở mức rất thấp trong vài năm trở lại đây.
Về mặt số lượng, các nhà đầu tư Hàn Quốc chưa thể chi phối tại TRA, nên đợt thoái vốn của SCIC được đánh giá là khá hấp dẫn.
Các đợt thoái vốn tại doanh nghiệp có tiềm năng của SCIC gần đây cho phép thị trường dễ hình dung về một kịch bản như sau: ể tối ưu giá bán và khả năng mua cổ phần, SCIC sẽ đưa vấn đề nới room ngoại lên 100% tại TRA.
ể vấn đề này được thông qua, iều lệ Công ty quy định tỷ lệ cổ phần bỏ phiếu thông qua là 65%, tức là khả năng nới room tại TRA là khả thi.
Sau đó, SCIC sẽ thực hiện bán đấu giá cả lô cổ phần trên để tránh trường hợp nhà đầu tư lớn chỉ muốn gom đủ lượng cổ phần đạt đủ quyền chi phối tại đây.
Theo quy định hiện hành, SCIC sẽ phải xác định giá khởi điểm căn cứ vào trung bình giá 30 phiên gần nhất và các phương pháp định giá cổ phiếu TRA.
Trong lần phân tích chi tiết gần nhất vào cuối năm 2019, bằng cách sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền và phương pháp so sánh P/E, Công ty Chứng khoán FPT (FPTS) xác định giá hợp lý của cổ phiếu TRA là 74.100 đồng/cổ phần, tức cao hơn thị giá TRA hiện nay khoảng 37%.
Trở lại với đợt thoái vốn của các tổ chức nước ngoài tại TRA cách đây gần 3 năm do Mekong Capital dẫn dắt, giá chuyển nhượng cho 2 nhà đầu tư Hàn Quốc nói trên được ghi nhận tới hơn 150.000 đồng/cổ phần.
Trước đợt thoái vốn này diễn ra, cổ phiếu TRA liên tục tăng và đạt mức giá đỉnh trước thềm thương vụ M&A được chốt là gần 140.000 đồng/cổ phiếu, sau đó đã liên tục giảm và hiện ở quanh mức 54.000 đồng/cổ phiếu.
Câu hỏi được giới đầu tư quan tâm là liệu đợt thoái vốn năm nay của SCIC tại TRA có trở thành một trợ lực để cổ phiếu TRA bứt phá khỏi "vùng giá an toàn" suốt mấy năm qua?
ể giải đáp câu hỏi này, phần nào cần nhìn vào hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay để xác định những yếu tố đột biến hỗ trợ cho biến động giá cổ phiếu.
Hiện nay, việc sở hữu thương hiệu tốt về đông dược giúp TRA giữ 11,53% thị phần ở mảng này (76% hàng tự sản xuất). Trong cơ cấu doanh thu thuần, hơn 60% tới từ mảng dông dược tự sản xuất, mảng tân dược tự sản xuất chiếm khoảng 20%.
Ngoài sản xuất đông dược và tân dược, TRA còn có nguồn doanh thu đến từ các hoạt động phân phối, nhập khẩu và ủy thác.
Hiện doanh thu ở kênh bán lẻ (OTC) chiếm tỷ trọng hơn 90% doanh thu thuần, doanh thu từ các hoạt động đấu thầu thuốc qua các phòng khám và bệnh viện (kênh ETC) chỉ chiếm 9,06%.
Khó khăn trong thị trường OTC cộng với các quy định thắt chặt hệ ETC của Nhà nước gần đây khiến doanh thu của TRA hầu như không tăng trưởng, thậm chí có thời điểm còn sụt giảm mạnh.
Theo định hướng chiến lược từ nay đến 2025, TRA sẽ thâm nhập mạnh vào kênh ETC, nhưng đây là thách thức lớn.
TRA ước tính cần đầu tư thêm 225 tỷ đồng để hoàn thành việc nâng chuẩn EU-GMP cho các dây chuyền tân dược vào đầu năm 2022 nhằm đáp ứng Thông tư quy định lại tiêu chuẩn phân nhóm đấu thầu thuốc có hiệu lực từ tháng 7/2019.
Còn hiện nay, các sản phẩm tân dược của TRA phải cạnh tranh về giá ở các nhóm thầu thấp và kênh bán lẻ.
Cũng như nhiều doanh nghiệp dược nội địa khác, TRA phải đối mặt với rủi ro lớn là không tự chủ về chất lượng và giá dược chất (chiếm 58% chi phí nguyên liệu) do phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nhập khẩu.
Thành phần chính của các sản phẩm tân dược chủ lực phụ thuộc vào nguồn cung duy nhất tại Ấn ộ và Trung Quốc.
Như vậy, yếu tố đột biến trong hoạt động sản xuất kinh doanh là thấp. Còn trợ lực đến từ chính sách cổ tức và chia thưởng từ các quỹ như đợt thoái vốn của Mekong Capital từng thực hiện đã không còn dư địa ở thời điểm này do lâu nay TRA liên tục duy trì cổ tức 30% bằng tiền mặt, chiếm tới 80% lợi nhuận sau thuế Công ty mẹ.
Phân tích kỹ phương thức thoái vốn và cách chọn giá khởi điểm của SCIC cũng cho thấy, ngay cả trường hợp thị giá TRA không được đẩy lên, SCIC cũng có nhiều dư địa để ấn định giá khởi điểm cao hơn thị giá do các quy định về định giá doanh nghiệp hiện hành.
Từ những yếu tố trên có thể nhận định, không dễ để TRA quay trở lại thời kỳ "hoàng kim" thị giá như trước đây.
Trần Vũ Cường
SCIC thoái vốn tại Công ty cổ phần Nhiệt điện Hải Phòng Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) sẽ đưa toàn bộ 45 triệu cổ phần đang sở hữu, tương đương 9% tổng số cổ phiếu có quyền biểu quyết đang lưu hành của Công ty cổ phần Nhiệt điện Hải Phòng (mã chứng khoán HND) ra đấu giá trọn lô. Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX)...