Tình thế của VietinBank: Đi trước, về sau
Có nhiều lý do để nhìn lại, khi bốn năm qua Quốc hội vẫn không thay đổi cơ chế tăng vốn tại VietinBank.
Tại kỳ họp Quốc hội lần này, một trong những nội dung được giới đầu tư chú ý là phương án tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước, gồm các thành viên mà Nhà nước nắm trên 50% cổ phần.
Nếu Agribank có tờ trình cụ thể của Chính phủ về phương án bố trí khoảng 3.500 tỷ đồng lợi nhuận giữ lại để tăng vốn, thì ba thành viên còn lại (gồm Vietcombank , BIDV và VietinBank ) chưa có thông tin công bố chi tiết về nội dung trình Quốc hội hay không; cụ thể tại từng trường hợp như thế nào.
Cụ thể tại từng trường hợp, vì trong nhóm trên (“Big 4″) có những đặc điểm khác nhau. Trong đó, Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) khá đặc biệt.
Khẩu phần của cơ chế
Từ trước và cho đến nay, trong “Big 4″, VietinBank là thành viên duy nhất đã sớm hoàn chỉnh mô hình sau cổ phần hóa.
Sau khi cổ phần hóa, giai đoạn từ 2009, ngân hàng này nhanh chóng lần lượt dùng hết các dư địa mà mô hình – cơ chế Nhà nước cho phép. Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài lấp đầy; giới hạn tỷ lệ sở hữu của Nhà nước khai thác tối đa, xuống còn gần 65%.
Những đặc điểm trên khiến VietinBank trở nên đặc biệt trong nhóm, khi đặt ra yêu cầu tăng vốn gắn với cơ chế.
Sau khi dùng hết các giới hạn trên, vốn chủ sở hữu “Thánh Gióng”, ngân hàng này nhanh chóng mở rộng quy mô tín dụng, tổng tài sản. Một so sánh, nếu nhìn cả quá trình nhiều năm qua, VietinBank từng có lợi nhuận thấp hơn nhiều lần so với Vietcombank; nhưng sau cổ phần hóa, giai đoạn trên, đây trở thành hiện tượng rút ngắn và gia tăng lợi nhuận, thậm chí có những năm vươn lên dẫn đầu toàn hệ thống.
Thế nhưng, cũng nhìn cả một quá trình, nhất là khi đặt trong chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2020 mà Thủ tướng đã phê duyệt, VietinBank nằm ở tình thế đi trước, về sau.
Cụ thể, họ đi trước về việc sử dụng hết các khẩu phần cơ chế trong tăng vốn và các giới hạn về sở hữu, nhưng lại về sau (và hiện chưa rõ khi nào đến đích) ở các chỉ tiêu quan trọng.
Đó là, từ năm 2016, Vietcombank đã tất toán xong toàn bộ nợ bán sang Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Sau đó đến lượt BIDV, rồi ngay cả Agribank cũng cán đích này dù khó khăn về vốn nổi bật hơn (quy mô thấp nhất trong nhóm và nợ xấu từng ở mức cao).
Tiếp đến, từ 2018 rồi 2019, đầu 2020, một loạt khoảng 20 ngân hàng thương mại đã đáp ứng xong yêu cầu đủ vốn, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo tiêu chuẩn Basel II, thậm chí một số thành viên còn chủ động cả 3 trụ cột của Basel II.
Còn VietinBank, đi trước và nhanh chóng tích tụ được nguồn lực lớn mà cơ chế – mô hình cổ phần hóa mang lại, nhưng đến nay vẫn chưa rõ khi nào về được hai đích quan trọng trên.
Điểm được chú ý, cơ chế của chính sách cho các ngân hàng sau cổ phần hóa đều công bằng như nhau, khẩu phần như nhau. Và có lẽ đây là một trong những lý do mà Quốc hội chưa có thay đổi để “tạo điều kiện” hay không.
Video đang HOT
Giai đoạn môi trường rủi ro và nhiều bất ổn bộc lộ trong nền kinh tế, VietinBank vận động nhiều và liên tục tăng mạnh tổng tài sản – Nguồn: VietinBank
Nguyên do của nội tại
Sẽ hợp lý nếu như VietinBank là thành viên đầu tiên cán được hai đích trên. Vì họ là trường hợp đầu tiên, sớm và duy nhất dùng hết cơ chế cho phép. Họ cũng đã sớm tích tụ được nguồn lực vốn chủ sở hữu rất lớn, tăng rất nhanh sau cổ phần hóa.
Nhưng nguyên do vì sao đi trước, về sau? Có phải vì cơ chế không đáp ứng yêu cầu tăng vốn cho họ hay không?
Trả lời những câu hỏi trên, có một miếng ghép thuộc về nội tại ngân hàng.
Năm 2009, VietinBank cổ phần hóa, niêm yết cổ phiếu trên sàn, lấp đầy “room” sở hữu nước ngoài… Nguồn lực vốn chủ sở hữu từ 18.170 tỷ đồng năm 2010 đột biến lên 55.013 tỷ đồng sau 4 năm. Quá trình tăng tốc của ngân hàng này nằm ở đây.
Nhưng, có một điểm về bối cảnh. Đó cũng là giai đoạn nền kinh tế chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, rồi ngay sau đó là bất ổn hệ thống ngân hàng và môi trường kinh doanh, với nóng bỏng lạm phát, tỷ giá, thị trường vàng, rồi nợ xấu 2010-2014.
Thời điểm này, khi yêu cầu tăng vốn cho VietinBank đặt ra và được cho là cấp bách, nền kinh tế đang chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, giãn cách xã hội vừa trải qua.
Khi dịch bùng phát, phản ứng thông thường của người dân là hạn chế đi lạ, hạn chế tiếp xúc và giao kết. Bối cảnh kinh tế giai đoạn 2010-2014 nói trên cũng vậy, môi trường rủi ro bộc lộ, nhiều ngân hàng tạm chững lãi, phòng thủ thay vì đẩy mạnh, mở rộng mạnh mẽ các hoạt động, như một lựa chọn để hạn chế khả năng “lây nhiễm” nợ xấu, rủi ro…
Thế nhưng, đó lại chính là giai đoạn VietinBank tăng trưởng bùng nổ các hoạt động.
Dư nợ tín dụng cũng tăng trưởng hơn gấp đôi trong giai đoạn đó… Nguồn: VietinBank
Cụ thể, tổng tài sản của họ năm 2010 mới 367.731 tỷ đồng thì chỉ sau 4 năm đã vọt lên tới 661.132 tỷ đồng, tăng trưởng gần 80%.
Dư nợ tín dụng cũng tăng trưởng hơn gấp đôi, từ 234.205 tỷ đồng năm 2010 lên tới 542.685 tỷ đồng năm 2014.
Nhìn sang hiệu quả, trong khi tổng tài sản và dư nợ tín dụng tăng trưởng mạnh như vậy, nhưng lợi nhuận trước thuế của VietinBank lại… sụt giảm liên tiếp ba năm 2012, 2013 và 2014.
Thế nhưng, lợi nhuận lại không tăng theo mà liên tiếp sụt giảm – Nguồn: VietinBank
Khi mà tổng tài sản tăng rất mạnh, tín dụng tăng rất mạnh, nhưng lợi nhuận lại liên tiếp sụt giảm thì dẫn đến một góc nhìn: chất lượng tài sản có vấn đề. Theo đó, phản ứng phòng thủ trong môi trường xấu để hạn chế bị “lây nhiễm” nợ xấu, rủi ro mà nhiều ngân hàng khác thực hiện được xem là một dẫn chiếu tham khảo. Còn VietinBank, như trên, lại khác.
Môi trường ô nhiễm, càng vận động mạnh và vận động nhiều thì cơ thể càng hứng chịu. Với ngân hàng, khi vận động nhiều mà chất lượng tài sản kém đi, lợi nhuận càng giảm sút thì có vấn đề, một mặt tác động ngay và rõ dần ở tỷ lệ an toàn vốn (CAR). Việc xử lý chất lượng tài sản sau đó kéo dài, cải thiện CAR vì thế cũng lâu dài. Tại VietinBank, đến nay CAR đang là điểm yếu chính.
Như vậy, khi nhìn vào nội tại ngân hàng cả một quá trình, nguyên do khó khăn và tình thế của VietinBank hiện nay không hẳn do cơ chế Nhà nước thiết lập eo hẹp, hoặc không tạo điều kiện.
Cơ chế là công bằng giữa các thành viên. Nếu khác đi ở một trường hợp nào đó sẽ dẫn đến lệch về công bằng cạnh tranh.
Cho đến nay, Quốc hội vẫn chưa từng có thông tin nào gợi mở là sẽ sửa cơ chế hoặc tạo điều kiện nào đó cụ thể. Bởi như trên, không hẳn khó khăn, yêu cầu cấp bách là do cơ chế Nhà nước.
Ngành ngân hàng quyết liệt hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn
Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho rằng các tổ chức tín dụng cần chủ động cân đối vốn để đầu tư các dự án hiệu quả, có khả năng phục hồi ngay sau khi dịch kết thúc.
Giao dịch tại ngân hàng. (Ảnh: CTV/Vietnam )
Tại Hội nghị tăng cường triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 diễn ra ngày 14/5 tại Hà Nội, nhiều doanh nghiệp đánh giá cao những nỗ lực của ngành ngân hàng, đặc biệt là việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 01 về cơ cấu lại thời gian trả nợ, gia hạn nợ gốc, miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ. Đây là chính sách thiết thực và kịp thời.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cho rằng khó có thể tiếp cận được những hỗ trợ này do thủ tục còn nhiều phức tạp, gây khó khăn cho doanh nghiệp và mức lãi suất vẫn còn cao...
Miễn, giảm lãi suất hơn 1 triệu tỷ đồng
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, những diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 đã tác động đến mọi mặt kinh tế, xã hội, đời sống của người dân. Ngân hàng Nhà nước dưới sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngay sau khi bắt đầu có dịch, đã chủ động nắm bắt, dự báo tình hình, triển khai các giải pháp cấp bách nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời xây dựng khuôn khổ pháp lý bằng việc ban hành ngay Thông tư 01 và Chỉ thị 02 vào đầu tháng Ba để các tổ chức tín dụng triển khai việc gia hạn các khoản nợ gốc và lãi đến hạn, miễn giảm lãi, phí và tiếp tục cho vay mới đối với những dự án, doanh nghiệp cần vốn để duy trì và phục hồi trong thời điểm cao trào chống dịch.
[Giảm lãi suất điều hành góp phần thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế]
Cũng theo Phó Thống đốc, sau 2 tháng triển khai quyết liệt, tất cả các tổ chức tín dụng, kể cả công ty tài chính, ngân hàng nước ngoài đều vào cuộc mạnh mẽ, thể hiện tinh thần chia sẻ, tháo gỡ, tạo điều kiện cho khách hàng vượt qua và khôi phục sản xuất kinh doanh.
Đến nay, các tổ chức tín dụngđã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho trên 215.000 khách hàng với dư nợ 130.000 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho 260.000 khách hàng với dư nợ 1,08 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ 23/1 đến nay đạt 630.000 tỷ đồng cho 182.000 khách hàng, lãi suất thấp hơn phổ biến từ 0,5-2,5% so với trước dịch. Riêng Ngân hàng Chính sách xã hội cũng đã thực hiện gia hạn nợ cho gần 103.000 khách hàng với dư nợ trên 2.800 tỷ đồng, cho vay mới đối với gần 517.000 khách hàng với dư nợ gần 19.000 tỷ đồng.
Tại hội nghị, nhiều doanh nghiệp đánh giá cao những nỗ lực của ngành ngân hàng, việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 01 về cơ cấu lại thời gian trả nợ, gia hạn nợ gốc, miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ. Đây là chính sách thiết thực và kịp thời.
Đại diện Công ty Cơ điện xây dựng Agrimeco, ông Nguyễn Văn An, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc cho biết, doanh nghiệp đang thực hiện dự án đầu tư thuỷ điện, tuy nhiên các thiết bị nước ngoài chuyển về bị dừng và dừng chưa biết đến bao giờ. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến dự án đề nghị ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp đi qua khó khăn...
"Ngân hàng đã chủ động làm việc với công ty và tính toán cho thấy sự hỗ trợ này giúp chúng tôi giảm được vài trăm triệu đồng trong tổn thất của đợt dịch này ước tính vài trăm tỷ đồng là rất đáng quý. Chúng tôi mong các ngân hàng tiếp tục đưa ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian tới và thiết lập mặt bằng lãi suất cho vay mới thấp hơn," ông An nói.
Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội cho biết, Hiệp hội thường xuyên phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Hà Nội tổ chức gặp gỡ doanh nghiệp nhỏ và vừa tháo gỡ khó khăn trong lĩnh vực tín dụng, đã kết nối làm việc với các ngân hàng như SHB, TPBank, VietinBank Hoàng Mai, Vietcombank, Agribank, MB... Bên cạnh đó, các ngân hàng đã đồng hành cùng doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng phương án khả thi để tiếp cận nguồn vốn vay được thuận lợi. Đặc biệt là không để doanh nghiệp bị nhảy nhóm nợ bởi vì khi bị nhảy nhóm doanh nghiệp sẽ không được tiếp cận gói vay mới.
Toàn cảnh hội nghị. (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Nhiều doanh nghiệp vẫn dè dặt vay vốn
Tại hội nghị, ông Trần Đăng Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp trẻ thành phố Hà Nội cho biết theo khảo sát từ các hội viên hiện có gần 20% doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng; 70% ảnh hưởng nhiều và chỉ có hơn 10% doanh nghiệp ít bị ảnh hưởng. Dự đoán suy giảm doanh thu năm 2020, có 47% doanh nghiệp suy giảm từ 20%-40%; 20% doanh nghiệp suy giảm từ 40%-90% doanh thu và thực tế gần 20% doanh nghiệp suy giảm 100%.
Điều này cũng được thể hiện việc tăng trưởng tín dụng từ đầu năm đến nay luôn ở mức thấp. Ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước cung cấp thông tin cụ thể, tăng trưởng tín dụng tháng Một tăng 0,1%, tháng Hai tăng 0,07%, tháng Ba tăng 1,1%, tháng Tư tăng 1,42% và đến trung tuần tháng Năm khoảng 1,2%.
Ông Hùng lý giải tăng trưởng tín dụng sang tháng Năm chững lại do các doanh nghiệp có dòng tiền và trả nợ nhưng lại chưa có kế hoạch kinh doanh mới để vay vốn hoặc vay rất ít. Mặc dù dịch bệnh trong nước đã được kiểm soát, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp còn thấp.
Chia sẻ về việc một số doanh nghiệp kiến nghị chưa tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi, ông Hùng cho biết có hiện tượng doanh nghiệp hoạt động khó khăn từ 1-2 năm trước, đã nợ xấu nhưng nay lại kiến nghị gửi Ngân hàng Nhà nước là không tiếp cận được vốn vay dù nằm trong đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.
Khẳng định quan điểm của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng không thiếu vốn miễn là doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ông Nguyễn Quốc Hùng cho biết thêm ngân hàng không thể cho vay khi đầu ra của doanh nghiệp gặp khó khăn, chưa chứng minh được hiệu quả của khoản vay. Thời điểm này, doanh nghiệp cần tiến hành sắp xếp, xác định hoạt động kinh doanh phù hợp với khả năng tài chính, từ đó có phương án kinh doanh hiệu quả. Nếu làm được như vậy thì chắc chắn ngân hàng sẽ cho vay.
Để việc hỗ trợ có hiệu quả, theo ông Mạc Quốc Anh kiến nghị ngành ngân hàng nên thống kê bao nhiêu doanh nghiệp, ngành hàng nhận được chính sách hỗ trợ. Từ đó, giúp các doanh nghiệp cùng ngành nghề học hỏi và việc hỗ trợ sẽ lan tỏa hơn.
Đồng hành cùng doanh nghiệp, đại diện các ngân hàng tại hội nghị như Vietcombank, VietinBank, MB, VPBank cho biết đã nhanh chóng vào cuộc ngay từ những ngày đầu.
Ông Hồ Văn Tuấn, Giám đốc Sở Giao dịch Vietcombank cho biết ngân hàng đã triển khai đồng bộ các giải pháp trong suốt thời gian qua. Đến nay, Vietcombank đã cơ cấu nợ, giữ nguyên nhóm nợ đối với 8.000 tỷ đồng dư nợ của 1.172 khách hàng; thực hiện giải ngân mới hơn 307.000 tỷ đồng hỗ trợ cho 83.000 khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch đảm bảo duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và cân đối dòng tiền; miễn giảm lãi hơn 850 tỷ đồng đối với 610.000 tỷ đồng dư nợ của tổng số 156.000 khách hàng, dự kiến tiếp tục miễn giảm cho khách hàng gần 1.500 tỷ đồng.
Ông Tuấn kiến nghị nên đưa các khoản cho vay sau 23/1 nhưng đến hạn trong thời gian dịch COVID-19 tác động vào danh sách được cơ cấu nợ, giãn nợ. Bên cạnh đó, đại diện Vietcombank cũng đề xuất xem xét việc đánh giá doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch.
"Hiện nay, căn cứ để xem xét dựa trên việc doanh thu giảm trên sổ sách kế toán. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp trong quý 1 chưa bị ảnh hưởng doanh thu nhưng về sau dòng tiền giảm do ảnh hưởng bởi dịch. Theo đó, ngân hàng kiến nghị bổ sung tiêu chí dòng tiền giảm vào đánh giá các doanh nghiệp bị tác động bởi dịch COVID-19," ông Tuấn kiến nghị.
Bà Phạm Thị Trung Hà, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Quân đội (MB) cũng cho biết việc hỗ trợ doanh nghiệp còn vướng một số điểm khó khăn như không được dự thu lãi với các khoản nợ cơ cấu. Điều này sẽ tác động đến doanh thu của các chi nhánh, tác động đến lương của các nhân viên. Bên cạnh đó, hiện nay ngân hàng áp dụng công nghệ vào quá trình giao dịch với khách hàng như chữ ký số, tuy nhiên chi phí để sử dụng vẫn còn cao nếu tăng cường áp dụng vào các nghiệp vụ, tương tự với chi phí SMS với ngân hàng./.
Gần 100.000 tỷ đồng đã được giải ngân cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi Covid-19 Như vậy, gần một nửa số tiền trong gói tín dụng hỗ trợ của ngành ngân hàng đã đến tay các doanh nghiệp chỉ sau 2 tuần Bản tin thời sự VTV tối 4/4 đưa tin, sau hơn 2 tuần kể từ khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 01, các ngân hàng thương mại đã giải ngân khoảng 100.000 tỷ...