Tình hình Biển Đông: “Đường lưỡi bò” không có cơ sở pháp lý
Tại buổi hội thảo “An ninh biển ở Đông Á”, các học giả châu Âu đã khẳng định “đường 9 đoạn” mà Trung Quốc vẽ ra trên Biển Đông không có cơ sở pháp lý.
Tin tức từ TTXVN cho biết, hội thảo “An ninh biển ở Đông Á” đã diễn ra vào ngày 5/6 tại Viện quan hệ quốc tế Na Uy (NUPI). Giáo sư Geoffrey Till thuộc Khoa Nghiên cứu quốc phòng của trường King’s College London (Vương quốc Anh); tiến sỹ Sam Bateman thuộc Trung tâm quốc gia Australia về tài nguyên và an ninh biển, Đại học Wollongong và giáo sư Stein Tonnesson thuộc Viện nghiên cứu hòa bình Na Uy (PRIO) là ba diễn giả chính của hội thảo. Ngoài ra, khoảng 30 đại biểu đến từ NUPI, PRIO, Viên nghiên cứu quốc phòng Na Uy, đại diện một số Đại sứ quan các nước Đông Á,… cũng tham dự hội thảo này.
Các đại biểu đã thảo luận sôi nổi về hành động ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông cũng như tác động của vấn đề này đối với an ninh và ổn định của Đông Á. Theo các đại biểu tại hội thảo, “đường 9 đoạn” mà Trung Quốc vẽ ra trên Biển Đông không có cơ sở pháp lý, do vậy, không thể là cơ sở để đàm phán.
Quang cảnh buổi hội thảo. Ảnh Vietnam
Liên quan đến tính pháp lý về “đường lưỡi bò”, tại Đối thoại Shangri-La 2014, nhà nghiên cứu Christian Le Miere thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược quốc tế (IISS) khẳng định rằng: “Phần trả lời của đại diện Trung Quốc về “đường chín đoạn” phủ nhận hoàn toàn luật biển quốc tế. Bạn không thể tuyên bố chủ quyền rộng lớn đối với biển, chỉ vì bạn tin rằng bạn có quyền với nó trong lịch sử. Cách nghĩ của Trung Quốc là một mớ bòng bong và làm đảo lộn hệ thống quốc tế. Nó sẽ là một ý tưởng khủng khiếp, một sự so sánh theo kiểu ngụy biện”.
Theo VOV, ngày 8/6, Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố tài liệu chỉ vẻn vẹn hai trang giấy biện minh cho yêu sách “chủ quyền” của nước này đối với quần đảo Hoàng Sa, biện hộ cho hoạt động phi pháp của giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, trên thực tế, đây là những tài liệu cắt ghép sự kiện, xuyên tạc lịch sử bởi không đề cập thực tế việc Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974. Tài liệu cũng né tránh đề cập yêu sách “ đường lưỡi bò” phi lý vốn đang bị dư luận quốc tế chỉ trích. Và dư luận thừa hiểu rằng,Trung Quốc đang cố tình lấp liếm hành vi sai trái ở Biển Đông.
Trong một diễn biến khác, Việt Nam tiếp tục kêu gọi cộng đồng quốc tế lên tiếng phản đối những hành vi sai trái của Trung Quốc ở Biển Đông trong các hội nghị cấp thứ trưởng của ASEAN và đối tác vừa diễn ra trong ngày 7 và 8/6 vừa qua tại Yangon, Myanmar.
Video đang HOT
Tàu Trung Quốc liên tiếp tiến lại gần và uy hiếp tàu chấp pháp của Việt Nam gần khu vực nước này hạ đặt trái phép giàn khoan Hải dương 981.
Thông tin trên báo điện tử TS cho biết, Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Quang Vinh nêu rõ những hành động xâm phạm của Trung Quốc ở Biển Đông. Ông nhấn mạnh việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 và đưa nhiều tàu hộ tống bảo vệ vào sâu trong vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Thứ trưởng Vinh đã yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan dầu cùng các tàu bảo vệ ra khỏi vùng biển của Việt Nam, đồng thời, kêu gọi các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế tiếp tục phản đối hành động xâm phạm của Bắc Kinh.
Theo Đời sống pháp luật
Tranh chấp trên biển, áp dụng UNCLOS 1982 như thế nào?
"Công ước Luật Biển năm 1982 không phải là cơ sở pháp lý duy nhất để xử lý, giải quyết tất cả mọi tranh chấp"- Ts Trần Công Trục, Nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ.
TS Trần Công Trục trả lời: Những tranh chấp xảy ra trên biển gồm có nhiều loại khác nhau. Công ước Luật Biển năm 1982 không phải là cơ sở pháp lý duy nhất để xử lý, giải quyết tất cả mọi tranh chấp.
Công ước Luật Biển năm 1982 không phải là cơ sở pháp lý duy nhất để xử lý, giải quyết tất cả mọi tranh chấp
Tại phần XV, từ Điều 279 đến Điều 299, của Công ước Luật Biển năm 1982 và các Phụ lục có liên quan, đã quy định các nội dung cơ bản như:
- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp;
- Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp;
- Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp;
- Trình tự thủ tục hòa giải (Phụ lục V);
- Tổ chức, thẩm quyền và thủ tục tố tụng của Tòa án quốc tế về Luật Biển (Phụ lục VI);
- Thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài (Phụ lục VII);
- Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án Trọng tài đặc biệt (Phụ lục VIII)...
Các quy định nói trên của Công ước Luật Biển năm 1982 là một bước tiến quan trọng của Luật quốc tế nói chung và Luật Biển nói riêng, là thành quả đấu tranh của mọi quốc gia, nhất là các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển, các quốc gia không có biển và bất lợi về mặt địa lý...Nó phản ánh đúng xu thế của thời đại hiện đại và văn minh, trong đó mọi mối quan hệ phải được xử lý bằng pháp luật.
Nguyên tắc nền tảng được dùng làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp theo quy định của Công ước Luật Biển 1982 là: Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp trong việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các biện pháp hòa bình theo đúng Điều 2, Khoản 3 của Hiến chương LHQ, Điều 33, Khoản 1 của Hiến chương.
Tại Phụ lục V của Công ước Luật Biển 1982, đã trù định việc thành lập một Uỷ ban hoà giải có chức năng "nghe ý kiến của các bên, xem xét các yêu sách và các ý kiến phản bác của họ và đưa ra có khuyến nghị cho các bên liên quan với mong muốn đạt được một sự hoà giải" ( Điều 6, Phụ lục V).
Các bên tranh chấp có thể tuyên bố bằng văn bản chấp nhận quyền tài phán của một trong các cơ quan tài phán sau: Tòaquốc tế về Luật Biển, Toà án quốc tế, Tòa trọng tài thông thường hoặc Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII dành cho các loại tranh chấp đã được định rõ trong Phụ lục này.
Theo quy định tại Điều 296, Công ước Luật Biển 1982, thì các phán quyết của Tòa có thẩm quyền là có tính chất tối hậu (chung thẩm), các bên tranh chấp liên quan phải tuân thủ. Các quy định về giải quyết tranh chấp của Công ước yêu cầu các thành viên của Công ước phải chấp hành, không được bảo lưu. Tuy nhiên các quốc gia thành viên có quyền lựa chọn cách thức riêng để giải quyết tranh chấp, có quyền lựa chọn phành phần của Toà án...
Cần lưu ý rằng, các quy định nói trên chỉ áp dụng cho những tranh chấp có liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước Luật Biển năm 1982. Các loại tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, về phân định biên giới, ranh giới biển, thềm lục địa, phân chia lợi ích kinh tế, tài nguyên biển muốn được các cơ quan tài phán quốc tế xét xử thì đều phái có thoả thuận bằng văn bản của các bên liên quan.
Vụ Philippines kiện Trung Quốc (TQ) áp dụng và giải thích sai Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) ở Biển Đông hầu như đều nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao của nhiều nước lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Ấn Độ, các học giả và luật gia quốc tế. Hiệu quả của vụ kiện này là Tòa án Quốc tế về Luật Biển đã thành lập Hội đồng Trọng tài 5 thành viên và khởi động phiên đầu tiên hôm 11/7. Hiện tại Philippines vẫn tiếp tục kiên trì không thay đổi lựa chọn này bất chấp việc TQ tìm mọi cách vận động, cô lập Philippines và ngăn chặn vụ kiện.
Theo đánh giá của dư luận thì đó là việc làm văn minh, đúng luật, hoàn toàn không có nghĩa là làm phức tạp vấn đề hay quốc tế hóa vấn đề. Ngược lại chính việc thông qua cơ quan tài phán có thẩm quyền sẽ giúp cho vấn đề được giải quyết một cách sòng phẳng và đơn giản hơn nhiều.
Theo Infonet
Philippines kiện Trung Quốc- cần sớm có COC trên Biển Đông Việc Philippines kiện Trung Quốc được coi là một bước đi táo bạo, bất ngờ Ngày 30/3 Philippines đã đệ trình lên Tòa án Trọng tài quốc tế tại thành phố Hague (Hà Lan) một bộ hồ sơ gồm gần 4.000 trang tài liệu với các chi tiết, bằng chứng và lập luận chống lại yêu sách của Trung Quốc về Đường 9...