Tỉnh An Giang được ra đời dưới triều vua Minh Mạng như thế nào?
Từ năm 1831 – 1832, vua Minh Mạng bắt đầu chia hạt đặt tỉnh, đổi trấn thành tỉnh, chỉ giữ lại mỗi phủ Thừa Thiên, cả nước có 1 phủ và 30 tỉnh, cho thiết lập quan chức: Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát, Lãnh binh.
Trước đó, vua Minh Mạng bãi bỏ các chức Tổng trấn cùng các chức Trấn thủ, Hiệp trấn, Tham hiệp ở các trấn trước; thiết lập quan chức: Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát, Lãnh binh thay thế.
Nam kỳ lục tỉnh xưa. Ảnh T.L
Tổng đốc, Tuần phủ đứng đầu các tỉnh, Đại Nam thực lục (viết tắt là ĐNTL) ghi rõ quyền hạn: “Tổng đốc giữ việc cai trị cả quân, dân, cầm đầu các quan văn quan võ trong toàn hạt. Khảo hạch các quan lại, sửa sang bờ cõi. Tuần phủ giữ việc tuyên bố đức ý triều đình, vỗ yên nhân dân, coi giữ các việc chính trị, giáo dục, mở điều lợi, bỏ điều hại”.
“… Phàm trong hạt sự việc gì nên tâu báo, đều được làm chuyên tập tâu lên. Duy Tuần phủ kiêm hạt, khi có chính sự lớn lao về việc hưng lợi trừ tệ thì cùng với Tổng đốc bàn bạc rồi ký tên tâu chung một giấy. Nếu ý kiến khác nhau, thì cho làm tờ tâu riêng” ( ĐNTL, tập 3, nhóm dịch, NXB Giáo dục, 2007, tr.234).
Thời vua Gia Long, bộ máy hành chính vận hành theo cơ chế phân quyền. Đàng Ngoài và Đàng Trong cũ được phân chia lại thành 27 trấn, doanh (hoặc dinh), triều đình Huế trực tiếp quản lý 4 doanh (Kinh kỳ) Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (sau đổi thành phủ Thừa Thiên), Quảng Nam và 7 trấn từ Nghệ An đến Bình Thuận.
Năm 1802, vua Gia Long thành lập Bắc thành, đặt chức quan Tổng trấn, ủy quyền cho quản lý trực tiếp 11 trấn (nội, ngoại) ở vùng đất phía bắc. Sáu năm sau, 5 trấn phía nam từ Bình Thuận trở vào được gọi là Gia Định thành. Đến năm 1826, vua cho đổi các doanh thành trấn.
Võ quan (phải) và văn quan (trái) thời vua Minh Mạng. Ảnh JOHN CRAWFURD, XUẤT BẢN Ở LONDON NĂM 1828
Đến thời vua Minh Mạng thì có nhiều thay đổi: Tháng 10 ÂL năm 1832, việc chia đặt tỉnh hạt, thiết lập quan chức ở phía nam diễn ra tương tự như phía bắc, “năm trước, chia đặt các tỉnh Bắc kỳ [đất kỳ phụ (gần Kinh kỳ) ở phía bắc], những việc mưu ích lợi, trừ tệ hại, thực có công hiệu sờ sờ ra rồi. Các trấn Nam kỳ, địa thế dẫu có lớn, nhỏ, xa, gần khác nhau, nhưng mọi việc như quân, dân, tài chính, thuế khóa, hình án, đều không khác gì Bắc kỳ” ( ĐNTL, tập 3, sđd, tr.393).
Video đang HOT
Trên cơ sở đó, 5 trấn của Gia Định thành cũ được chia thành 6 tỉnh mới: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Long (đổi từ trấn Vĩnh Thanh), Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Xét thấy Vĩnh Long đất rộng, dân giàu hơn cả mọi hạt nên vua cho tách lấy huyện Vĩnh An và Vĩnh Định của tỉnh này gộp với đất Châu Đốc, lập làm tỉnh mới là An Giang.
Các công việc vỗ về Chân Lạp, phòng ngừa Xiêm La, giao hiếu và triều cống của hai nước này, đều giao cho Tổng đốc An – Hà (tức liên tỉnh An Giang và Hà Tiên).
Cảnh chợ ở Sài Gòn . Ảnh ALBERT MORICE
Thời Minh Mạng, Tổng đốc có trách nhiệm chuyên hạt một tỉnh và kiêm hạt một tỉnh, 6 tỉnh ở Nam kỳ bấy giờ được chia thành 3 liên tỉnh gồm An – Biên, Long – Tường và An – Hà. Tổng đốc Long – Tường (tức liên tỉnh Vĩnh Long và Định Tường) bấy giờ là Thống chế Lê Phúc Bảo (một số tài liệu gọi là Lê Phước Bửu) đóng tại phủ Định Viễn thuộc tỉnh (lớn) Vĩnh Long, dưới có quan Bố chánh Vĩnh Long (bấy giờ là Phạm Phúc Thiệu). Lê Phúc Bảo kiêm luôn chức Tuần phủ tỉnh Vĩnh Long. Bấy giờ, ở Long – Tường thì chỉ tỉnh (vừa) Định Tường mới có Tuần phủ (bấy giờ là Tô Trân) thực thụ, kiêm luôn công việc Bố chánh trong tỉnh. Cả hai tỉnh đều có Án sát và Lãnh binh, mỗi chức một viên. (Còn tiếp)
Đến Huế chiêm ngưỡng bảo vật Cửu đỉnh độc nhất vô nhị
Cửu đỉnh triều Nguyễn là bảo vật quốc gia dạng độc bản, có một mà không có hai. Được khởi tạo dưới thời vua Minh Mạng, trải qua quãng thời gian 200 năm với bao biến thiên thời cuộc, Cửu đỉnh đến nay vẫn vẹn nguyên như thuở ban đầu.
Thế Tổ miếu
Cửu đỉnh (9 chiếc đỉnh đồng) được vua Minh Mạng cho khởi đúc vào cuối năm Ất Mùi, 1835, đến tháng Giêng năm Đinh Dậu, 1837, mới hoàn thành và tôn kính làm lễ đặt đỉnh trước sân chầu Thế Tổ miếu bên trong Hoàng thành Huế, sau lưng Hiển Lâm các. Các đỉnh đồng ở nguyên tại vị trí đó cho đến ngày nay.
Cửu đỉnh có tổng trọng lượng hơn 20.300 kg, được đặt tên theo thứ tự là Cao, Nhân, Chương, Anh, Nghị, Thuần, Tuyên, Dụ, Huyền. Mỗi tên này của đỉnh được lấy từ miếu hiệu (tên để thờ cúng) của một vị vua nhà Nguyễn. Cửu đỉnh được dùng làm biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống nhất của đất nước và ước mơ triều đại mãi vững bền. (Trong ảnh là Cao đỉnh đặt chính giữa, tượng trưng cho sự vĩ đại).
Trải qua 200 năm, với dặm dài thời gian và đi qua bao cuộc chiến tranh tàn khốc, Cửu đỉnh vẫn còn nguyên vẹn như ban đầu. Kể từ lúc dựng lập đến nay, chín chiếc đỉnh trở nên nổi tiếng về nhiều phương diện: lịch sử, tư tưởng, tín ngưỡng, địa lý, mỹ thuật, quân sự, nông nghiệp, kỹ thuật, giao thông, xã hội...
Trên mỗi thân đỉnh, ngoài hai chữ Hán lớn ghi rõ danh xưng, nhà vua còn cho tinh tuyển 17 hình tượng đại diện cho các tinh tú, tự nhiên, núi sông, linh vật, chim muông, gỗ quý, ngũ cốc, hương liệu, hoa màu, cây trái... từ dân gian đến chốn cung đình. Trên đỉnh còn khắc ghi thành tựu nổi bật như đào sông dẫn thủy, chế tạo quân khí, xây dựng thành quách, đóng thuyền lớn vươn ra biển cả.
Hình tượng "Đông hải" - Biển Đông của Việt Nam trên Cửu đỉnh.
Long - Hình tượng con rồng trên Cửu đỉnh.
"Nam hải" - vùng biển phía Nam của đất nước trên Cửu đỉnh
Ngự Bình sơn - Núi Ngự Bình của xứ Huế trên Cửu đỉnh.
Trên mỗi thân đỉnh được đúc tạo và khắc nổi những họa tiết hoa văn, chữ viết sống động như nêu trên đã thể hiện trình độ cao, tay nghề tinh xảo của những nghệ nhân đúc đồng dưới thời nhà Nguyễn. Theo giới chuyên môn về bảo tồn văn hóa, 9 chiếc đỉnh đồng cổ này rất xứng đáng là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình độc đáo bậc nhất của Việt Nam.
Cửu đỉnh còn là những bản hiện vật nguyên gốc và cũng là bản duy nhất (độc bản). Từ khi được hình thành, Cửu đỉnh chưa từng được sửa chữa, dù chỉ một chi tiết nhỏ. Vì vậy, chúng có giá trị độc bản và không thể thay thế.
Cửu đỉnh được công nhận Bảo vật quốc gia năm 2012. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế hiện hoàn thành xây dựng hồ sơ gửi Bộ VH-TT&DL xem xét cho ý kiến trước khi đệ trình UNESCO công nhận Cửu đỉnh là "Di sản Tư liệu thế giới".
Hậu duệ nhà Nguyễn nói gì sau khi Hà Kiều Anh xin lỗi? Theo người này, Hà Kiều Anh chỉ có thể gọi "họ hàng xa bên ngoại Đức Tuy Lý Vương" hoặc cùng lắm "hậu duệ bên ngoại Đức Tuy Lý Vương". Những ngày qua, ồn ào hoa hậu Hà Kiều Anh tự nhận "công chúa đời thứ 7 triều Nguyễn" gây xôn xao dư luận. Ngày 2/7, chia sẻ trên Ngoisao.net , ông Nguyễn...