Tin huyện lên quận, ăn theo siêu dự án đẩy giá đất ven đô
Mặc dù chưa biết dự án thành phố thông minh tròn méo ra sao nhưng nhiều người dân có đất kỳ vọng sau khi dự án đi vào triển khai, giá bất động sản theo đó tăng lên.
Cơn sốt theo đại dự án
Thông tin về dự án xây dựng thành phố thông minh tại Đông Anh đã xuất hiện từ năm trước. Phải tới tháng 10/2019, liên danh Tập đoàn BRG và đối tác Nhật Bản mới chính thức động thổ dự án gần 4,2 tỷ USD này.
Dự án có diện tích 272 ha tại các xã Hải Bối, Vĩnh Ngọc và Kim Nỗ, huyện Đông Anh. Dự án được lập dựa trên quy hoạch đô thị thông minh dọc trục Nhật Tân – Nội Bài, chiều dài khoảng hơn 11km, từ cầu Nhật Tân đến sân bay Nội Bài, dự kiến hoàn thành toàn bộ 5 giai đoạn vào năm 2028.
Sự xuất hiện của “Thung lũng Silicon Việt Nam” với mức đầu tư 10.000 tỷ trong tương lai gần, hứa hẹn khu vực Đông Anh sẽ trở thành nơi tập trung nguồn nhân lực chất lượng cao, đạt kì vọng sẽ thu hút được các doanh nghiệp, nhà khoa học trong nước và quốc tế tới và làm việc. Cùng với thông tin Đông Anh chuẩn bị lên quận, thị trường bất động sản tại đây đang nóng lên từng ngày.
Đất nền ven đô sốt nóng
Sự xuất hiện hai đại dự án của Vingroup là Vinhomes Ocean Park tại Gia Lâm và Vinhomes Smart City đã khiến cho đất nền các khu vực lân cận tăng nóng. Tại An Đào, Đa Tốn, Kiêu Kị, Dương Xá,… khu vực nằm trong bán kính từ 1-3km của dự án Vingroup, giá đất nền ở những vị trí xấu, trong ngõ sâu, ô tô không vào được cũng lên tới 38-40 triệu đồng mỗi mét vuông.Theo khảo sát, các khu vực có mức tăng rõ rệt nằm tại đoạn sau cầu Thăng Long và đoạn đường 5 kéo dài qua sông Hồng với các tâm điểm là Kim Chung, Hải Bối và Đông Hội. Tại xã Vĩnh Ngọc, ngay chân cầu Nhật Tân, đối diện đoạn 4 (khu vực quy hoạch thành phố thông minh), theo tìm hiểu, giá đất tại đây hiện cũng khá cao. Giá đất mặt đường có vị trí đẹp lên tới 200 triệu đồng/m2.
Trong khi đó, giá đất tại các khu vực xung quanh dự án Vinhomes, nằm trong bán kính từ 2-5km ở các phường Đại Mỗ, Tây Mỗ (Nam Từ Liêm) tăng mạnh nhất, dao động từ 40-50%, có nơi tăng lên 100% so với đầu năm ngoái.
Dọc theo tuyến đường 70, nằm song song với Đại lộ Thăng Long, nơi có dự án chạy qua, cũng ghi nhận sự biến động mạnh về giá đất. Giá đất tại khu vực này từ 80-120 triệu/m2 mặc dù trong năm 2018 chỉ dừng ở mức từ 55-60 triệu/m2.
Rục rịch tăng giá sau thông tin lên quận
Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội vừa ký ban hành 4 quyết định phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng 4 huyện: Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Đan Phượng thành quận đến năm 2025.
Thông tin lên quận cũng phần nào khiến giá đất vùng ven tăng. Khảo sát từ một số văn phòng nhà đất tại thị trấn Trôi cũng như quanh Hoài Đức, PV ghi nhận được giá đất thổ cư, nhà riêng đang tăng nhẹ. Tại một số xã như An Khánh, Vân Canh… giá tăng từ 3-4 triệu đồng/m2, đẩy mặt bằng giá lên 18-25 triệu đồng/m2.
Tại các khu đô thị liền kề gần Thiên Đường Bảo Sơn đã bỏ hoang nhiều năm, hiện giá đã tăng 37-38 triệu đồng/m2, trong khi năm ngoái chỉ 18-20 triệu đồng/m2. Đắt nhất là tại mặt đường chạy dọc QL32, giá đất đẹp lên tới khoảng 120-130 triệu đồng/m2.
Video đang HOT
Tăng 3-4 lần, đất nền ngoại thành 5 tháng phát sốt
Trên các web mua bán bất động sản, đất nền tại huyện Đông Anh (Hà Nội) đang được rao bán với mức giá từ 23-40 triệu đồng/m2 khu vực trong làng. Các khu vực gần đường Võ Nguyên Giáp, gần dự án Thành phố Thông minh giá từ 40-70 triệu đồng/m2.
Giá đất tại huyện Đan Phượng, vị trí mặt đường các trục chính dao động khoảng từ 55-70 triệu đồng/m2. Đất thổ cư trong làng khoảng từ 10-25 triệu đồng/m2, tùy vị trí. Nếu so với thời điểm đầu 2015, giá đất hiện tại tăng khoảng hơn 30-40%.
So với các huyện thị khác, Thanh Trì có mức giá đất trung bình cao nhất hiện nay. Một số khu vực có giá trị bất động sản cao có thể kể đến như Cầu Bươu (52,1 triệu/m2), Kim Giang (65,4 triệu/m2), liên xã Phan Trọng Tuệ (61,9 triệu/m2), Tân Triều (77 triệu/m2),…
Cò lướt sóng
Nhanh chóng chớp lấy thời cơ để kiếm lời, trên mạng xã hội và nhiều chuyên trang bất động sản các dự án đã quảng cáo rầm rộ. Điều đáng nói, nhiều diện tích đất nền được rao bán là đất nông nghiệp. Giới đầu cơ bất động sản đã thu gom và mua lại từ người dân khi có thông tin các huyện trên sẽ quy hoạch lên quận, sau đó phân lô, nền để bán lại cho những ai có nhu cầu.
Ông Nguyễn Văn Đính, Phó Tổng thư ký Hiệp hội bất động sản Việt Nam, cho rằng, việc đề xuất nâng 4 huyện lên quận gây chú ý bởi đây đều là những địa phương đang tập trung rất nhiều dự án lớn. Tuy nhiên, giá trị đất đai luôn tăng theo giá trị đầu tư. Đi kèm với đất là cơ sở hạ tầng phù hợp mới nâng cao được giá trị của đất, chứ không phải từ một huyện lên thành quận là giá trị của đất đã tăng theo.
“Hơn 10 năm trước tại Hoài Đức, Mê Linh cũng rầm rộ chuyện tăng giá đất nhưng đến thời điểm này vẫn chưa có đầu tư gì thêm. Hiện tại, nhiều dự án đã hoang hoá, vậy nên đừng nghĩ đến chuyện đất lên giá khi chưa có sự đầu tư đồng bộ. Tại Đông Anh vẫn là đại công trường, tất cả dự án vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, ngoài khu vực cầu Nhật Tân và trục QL5 mới còn lại vẫn mênh mông ruộng đồng. Trên thực tế, chuyện tăng giá theo chủ trương, định hướng, quy hoạch thì tăng đến 5% là hợp lý, chuyện tăng 20-50% là không thể”, ông Đính nhận định.
Ông Dương Đức Hiển, Giám đốc Kinh doanh nhà ở phụ trách miền Bắc và miền Trung của Savills Việt Nam, cho rằng, đất nền được đánh giá là sản phẩm đầu tư dài hạn. “Xác định là dài hạn, mua và quên nó đi”, ông Hiển nhấn mạnh.
Vị chuyên gia của Savills cho rằng sai lầm trong câu chuyện đầu tư đất nền chính là việc mua đi bán lại để tăng giá. Những mảnh đất không được đầu tư phát triển xây dựng, không có tính thương mại nhưng lại được mua đi bán lại, đẩy giá lên cao và sau đó thế chấp tại ngân hàng là nguyên nhân gây phát sinh bong bóng.
Ông Hiển chia sẻ: “Tôi sẽ nhìn đất nền giống như lương khô, đầu tư mua 1 mảnh đất có thể sau này cho con cái thay vì mua xong và kỳ vọng trong vòng 1-2 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm sẽ kiếm lời gấp đôi. Không có chuyện đó xảy ra”.
Theo bà Đỗ Thị Thu Hằng, Giám đốc bộ phận Nghiên cứu và Tư vấn Savills Hà Nội, cần lưu ý là lộ trình 4 huyện lên quận này diễn ra từ nay đến 2025. Sẽ phải mất vài năm để thị trường bất động sản phản ánh rõ rệt sự thay đổi, khác biệt lên giá bất động sản.
Bên cạnh đó, để mức tăng giá này bền vững, thị trường tại các địa phương cần hội tụ đầy đủ và đồng bộ các yếu tố như quy mô dân số, đầu tư cơ sở hạ tầng, quy tụ các cơ quan ban ngành. Nếu nhìn vào các huyện sẽ lên quận hiện nay, chúng ta có thể thấy đây là một chặng đường dài. Vì vậy, các hiện tượng thổi giá hay tạo sốt đất ảo nếu có xảy ra, theo thời gian sẽ được thị trường điều chỉnh để phản ánh giá trị thực.
Theo Duy Anh/Vietnamnet
Giải bài toán phát triển hạ tầng sân bay Việt Nam
Cùng với ACV, các nhà đầu tư tư nhân nước ta cần được tạo điều kiện chia sẻ cơ hội, chia sẻ rủi ro và hợp tác tạo dựng niềm tin trong nhân dân vào các dự án đầu tư hạ tầng giao thông.
Nhiều ý kiến tranh luận việc giao chỉ định Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) đầu tư sân bay Long Thành đã làm nóng phiên thảo luận của kỳ họp Quốc hội gần đây. Trên các diễn đàn báo chí và mạng xã hội, chủ đề này không kém phần nóng.
Cuối cùng, Quốc hội đã không ra nghị quyết giao "siêu dự án" hạ tầng sân bay này cho ACV như Chính phủ đề nghị, mà giao Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định cả mức đầu tư giai đoạn 1 và nhà đầu tư theo các quy định pháp luật.
Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải (Bộ GTVT) và ACV nghiên cứu các thông tin báo chí nêu về xây dựng sân bay Long Thành. Các diễn biến này nằm trong bối cảnh hạ tầng sân bay Việt Nam đang bị quá tải nghiêm trọng và rất đáng lo ngại.
Nước ta hiện đang có 22 sân bay dân dụng (9 sân bay quốc tế và 13 sân bay nội địa). Tổng công suất toàn mạng sân bay đạt 90,4 triệu khách/năm, nhưng năm 2018 đã được khai thác phục vụ gần 105,0 triệu khách. Cả 3 sân bay quốc tế lớn nhất của nước ta đều bị quá tải, từ mức độ vượt nhẹ công suất thiết kế như sân bay Nội Bài (công suất hiện tại 25,0 triệu khách/năm, năm 2018 phục vụ 25,9 triệu khách), đến quá tải nặng như sân bay Đà Nẵng (13,2 triệu khách năm 2018 trên công suất thiết kế 10,0 triệu khách) và quá tải rất nghiêm trọng như sân bay Tân Sơn Nhất (38,0 triệu khách năm 2018 trên công suất thiết kế chỉ 28,0 triệu khách).
Xã hội hóa đầu tư hạ tầng sân bay ở nước ta cần trở thành một chủ trương xuyên suốt.
Ngành du lịch Việt Nam nhận diện hạ tầng sân bay nước ta đã và sẽ còn tiếp tục là một nút thắt lớn và khó khăn đối với tăng trưởng du lịch quốc tế và nội địa. Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 16/01/2017 xác định: "Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác".Tuy nhiên, thời gian điều chỉnh quy hoạch mở rộng sân bay, xác định các hạng mục đầu tư, chọn nhà đầu tư và triển khai xây dựng các công trình sân bay thường mất nhiều năm, cho nên mức độ quá tải của các sân bay Nội Bài, Đà Nẵng cũng sẽ gia tăng nhanh, không loại trừ khả năng lâm vào tình trạng quá tải nghiêm trọng như sân bay Tân Sơn Nhất đã và đang phải đối mặt nhiều năm qua.
Ngành du lịch Việt Nam sẽ không thể thực hiện thành công mục tiêu chiến lược mà Bộ Chính trị đề ra nếu thiếu sự đồng bộ, đồng hành của ngành hàng không, đặc biệt là trong đầu tư phát triển hạ tầng sân bay Việt Nam. Đơn cử, tại sân bay Tân Sơn Nhất, rất nhiều nhu cầu mở đường bay mới nội địa, quốc tế và nhu cầu tăng chuyến bay trên các đường bay hiện tại không được đáp ứng do hầu hết các khung giờ đã bị hết "lốt" (slot).
Thiệt hại kinh tế từ quá tải sân bay là rất lớn, nhưng ngoài thiệt hại kinh tế còn có nhiều thiệt hại khác nữa. Chẳng hạn, tình trạng tắc đường khu vực sân bay Tân Sơn Nhất gây nhiều bức xúc cho người dân địa phương và du khách nội địa, quốc tế, làm xấu bộ mặt của thành phố lớn của ngõ nhất nước ta. Cuộc "giải cứu" sân bay Tân Sơn Nhất kéo dài cũng làm sút giảm niềm tin trong nhân dân và giới kinh doanh vào năng lực giải quyết vấn đề của các cơ quan quản lý.
Không phải do thiếu tiền, mà do thiếu những yếu tố khác, được gọi một cách chung chung là "cơ chế". Mặc dù ACV đã có rất nhiều nỗ lực, đạt được nhiều thành tựu và đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đầu tư phát triển hạ tầng sang bay Việt Nam trong các thập niên qua, ACV và cơ chế sở hữu, quản lý của nó đang tỏ ra bất cập và đuối sức trước nhu cầu phát triển của giai đoạn mới.
Với một nền du lịch và vận tải hàng không phát triển đầy năng động như ở nước ta trong vài chục năm gần đây, việc phát triển hạ tầng sân bay dựa vào chỉ một doanh nghiệp sân bay như ACV là bất hợp lý và bất khả thi.
Càng bất hợp lý, bất khả thi hơn khi ACV đã được cổ phần hóa một tỷ lệ nhỏ (khoảng 5%), nhưng chính vì thế mà nay đã có các cổ đông tư nhân, cổ đông nước ngoài ở ACV. Thực tế đó làm cho việc giao đất và chỉ định thầu cho ACV trở thành một vướng mắc không hề nhỏ.
Nếu ACV được giao đất không qua đấu giá và được chỉ định đầu tư dự án thì các cổ đông tư nhân, cổ đông nước ngoài của nó được hưởng lợi và 5% cổ phần ở ACV là một con số rất lớn về giá trị tiền.
Vậy tại sao các nhà đâu tư tư nhân, nước ngoài khác bị gạt ra ngoài?
Không thể nói là do họ thiếu năng lực, thiếu vốn. Việc tập đoàn tư nhân Sun Group xây dựng thành công sân bay quốc tế Vân Đồn với thời gian thực hiện dự án khá ngắn và chi phí đầu tư được đánh giá là khá rẻ so với các dự án hạ tầng sân bay khác cho thấy một số tập đoàn tư nhân của Việt Nam đã đủ sức tham gia đầu tư hạ tầng hàng không.
Khó như sản xuất ô-tô mà tập đoàn tư nhân Vin Group còn làm được thì sân bay không có gì là quá sức đối với họ. Việc các nhà đầu tư tư nhân bị gạt ra ngoài mảng hạ tầng sân bay không thể không làm nảy sinh câu hỏi liệu các chủ trương coi trọng kinh tế tư nhân, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư hạ tầng sân bay thực sự có tính nhất quán và xuyên suốt trong quan điểm quản lý của nhà nước ta hay không?
Ở Thái Lan, tập đoàn sân bay AOT chỉ quản lý 6 sân bay lớn nhất Thái Lan trong tổng số 38 sân bay dân dụng, không ôm đồm đến mức như ACV đang chiếm 21/22 sân bay ở nước ta.
Ngoài ra, việc tách khu bay khỏi ACV dẫn đến thực tế là các hạng mục công trình tốn tiền đầu tư nhất (đường băng, đường lăn) thì nhà nước giữ lại và chi tiền, còn các hạng mục sinh lời nhiều nhất (nhà ga và các công trình thương mại - dịch vụ trước nhà ga) thì ACV được nhận và trở thành một doanh nghiệp độc quyền siêu lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của ACV thường cỡ 40-45%, trong khi các hãng hàng không Việt Nam chỉ đạt lợi nhuận từ 2-3% đến 5-7%, một số hãng bị lỗ kéo dài (như Jetstar Pacific) và một số hãng đã bị phá sản (Indochina Airlines, Air Mekong).
Xã hội hóa đầu tư hạ tầng sân bay ở nước ta cần trở thành một chủ trương xuyên suốt. Cùng với ACV, các nhà đầu tư tư nhân nước ta cần được tạo điều kiện chia sẻ cơ hội, chia sẻ rủi ro và hợp tác tạo dựng niềm tin trong nhân dân vào các dự án đầu tư hạ tầng giao thông.
Không thể đòi hỏi một niềm tin như thế từ nhân dân khi đã có không ít dự án đầu tư công hết sức nhức nhối, với thời gian xây dựng chậm trễ nhiều năm và đội vốn gấp 2-3 lần dự toán ban đầu. Nên làm điều này ngay với dự án mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất và "siêu dự án" sân bay Long Thành.
Đối với các sân bay quốc tế Nội Bài, Đà Nẵng, việc điều chỉnh quy hoạch để mở rộng là không thể chậm trễ. Nếu tính quỹ đất quốc phòng có thể chuyển đổi mục đích sử dụng ựu tiên cho hàng không dân dụng thì việc mở rộng sân bay Nội Bài lên công suất 80-100 triệu khách/năm và sân bay Đà Nẵng lên công suất 40-50 triệu khách/năm là hoàn toàn khả thi.
Trên cơ sở quy hoạch mới, các công trình mở rộng các sân bay này nên mở ra cho các nhà đầu tư tư nhân tham gia để giảm thiểu nguồn vốn đầu tư công, nợ công, tăng hiệu quả đầu tư và quản lý, vận hành sân bay.
Theo kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới, nghiên cứu việc chuyển quyền sở hữu và quản lý một số sân bay cho chính quyền địa phương và cho phép các địa phương chủ động về quy hoạch, nguồn vốn đầu tư phát triển sân bay, đặc biệt là các sân bay nhỏ, sân bay chuyên dùng.
Ngoài ra, một số sân bay quân sự ở nước ta có thể xem xét khai thác kết hợp hàng không dân dụng dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng. Ví dụ, tại Thái Lan, sân bay quốc tế U-Tapao Rayong Pattaya trong nhiều thập niên qua do Hải quân Hoàng gia Thái Lan quản lý và vận hành. Ngay cả ở Hoa Kỳ cũng có những sân bay dùng chung quân sự - dân sự do quân đội quản lý.
Ở nước ta một số sân bay quân sự với cơ sở hạ tầng khu bay rất tốt, có thể khai thác dân dụng hiệu quả với chi phí và thời gian đầu tư thêm không nhiều so với xây sân bay mới. Ngày 05/12 vừa qua, Bộ Quốc phòng và Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đã động thổ giai đoạn 1 dự án xử lý ô nhiễm dioxin tại sân bay Biên Hòa với nguồn vốn 300 triệu USD và công nghệ xử lý của Hoa Kỳ.
Với hạ tầng khu bay hoàn hảo và quỹ đất khá rộng, sân bay Biên Hòa tới đây hoàn toàn có thể khai thác dân dụng cho các công năng vận tải hàng hóa, sửa chữa máy bay và công nghiệp hàng không, bay thuê chuyến, các hoạt động bay hàng không chung, với tiền đầu tư không lớn và thời gian xây dựng rất nhanh.
Tại Ninh Thuận, với sự chuyển dịch mạnh sang phát triển du lịch biển, sân bay Phan Rang có thể phù hợp để xem xét khai thác kết hợp quân sự - dân sự.
Theo Lương Hoài Nam, TS kinh tế, Thành viên Hội đồng tư vấn du lịch (TAB)
Theo Vietnamnet
Đến bao giờ nguồn cung bất động sản mới hồi phục? Hầu hết các chuyên gia trong ngành cho rằng, nguồn cung thị trường bất động sản (BĐS) năm 2020 sẽ có dấu hiệu khả quan hơn năm 2019 nhưng lại không ai trả lời rõ được rằng, khi nào nguồn cung thị trường mới quay trở lại. Rõ ràng, nguồn cung thị trường BĐS trên cả nước đang có dấu hiệu giảm tốc...