Tìm lối đi để kinh tế Việt Nam vượt “bão” Covid-19
LTS: Đại dịch Covid-19 như một cơn bão bất ngờ, một cơn đại hồng thủy dữ dội, thậm chí có nhà nghiên cứu còn gọi đó là một cuộc “chiến tranh thế giới thứ 3″ vô hình và nguy hiểm, đang làm đảo lộn thế giới, gây ra suy thoái và nguy cơ khủng hoảng kinh tế, với những ảnh hưởng nặng nề, khó lường. Nền kinh tế Việt Nam với độ mở cao sau hơn 30 năm đổi mới và gần 15 năm hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đang bị “dư chấn” nặng nề của bão Covid-19.
Tìm giải pháp đê chủ đông ứng phó, tháo gỡ khó khăn, chặn đà suy giảm, giúp nên kinh tê phát triên đang là câu hỏi lớn, là quyêt tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đê góp thêm tiêng nói, “hiên kê”, từ hôm nay, Báo Quân đôi nhân dân Điên tử mở loạt bài “Tìm lôi đi đê kinh tê Viêt Nam vượt “bão” Covid-19″, mong muôn ghi nhân được nhiêu ý kiên tâm huyêt của các chuyên gia, nhà quản lý và bạn đọc vê vân đê này.
Bài 1 “Siêu bão” bât ngờ và nguy hiêm
Đại dịch Covid-19 gây ra nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đên nên kinh tê toàn câu, và nhiều dấu hiệu cho thấy cuộc khủng hoảng toàn cầu lần này sẽ khó kết thúc sớm. Việt Nam cũng khó có thể tránh khỏi sự tác động tiêu cực của dịch bệnh. Việc đạt mục tiêu tăng trưởng 6,8% là thách thức rất lớn trong bối cảnh nhiêu khó khăn, thách thức từ Covid-19.
Kinh tê thê giới dưới “bóng ma” đại dịch – cuộc chiến thứ tư
Trong khoảng 30 năm trở lại đây, kinh tế thế giới đã trải qua 3 chu kỳ khủng hoảng, suy thoái (năm 1987, 1997, 2008) và năm 2020 đang được dự báo khởi đầu cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới vì đại dịch Covid-19. Và dịch Covid-19 bùng phát ở Trung Quốc và lây lan nhanh chóng ở châu Âu, Mỹ và châu Á… từ giữa tháng 3-2020 là “cú sốc” đối với nền kinh tế toàn cầu vốn đang trên đà “giảm tôc” từ cuôi năm 2019. So với cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 thì lần này thế giới khó khăn hơn nhiều. Nếu dịch bệnh tiếp tục lây lan, không thể kiểm soát sẽ là “chất xúc tác” cho một cuộc suy thoái kinh tế mới trên diện rộng.
Henry A. Kissinger – nhà chính trị, cựu ngoại trưởng, cố vấn an ninh quốc gia hai nhiệm kỳ tổng thống Mỹ mới đây đã có bài viết đánh giá, nêu thất bại có thể đưa thế giới vào “biển lửa” vì Covid-19. Còn nhà kinh tế Jean Peyrelevade người Pháp cho rằng, thế giới đang bước vào một kịch bản kinh tế chưa từng có tiền lệ.
Biêu đô dự báo thay đôi GDP quý I năm 2020 cho thây đạidịch Covid-19 gây thiệt hại nặng nề cho kinh tế thế giới.
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, Tổng Giám đốc Quỹ Tiên tê thê giới (IMF), Ngân hàng Thê giới (WB), các hãng xếp hạng tín nhiệm đêu cảnh báo thế giới khó tránh khỏi một cuộc suy thoái toàn cầu. Kinh tế thế giới có thể mất tới hơn 5.000 tỷ USD. Tổ chức Fitch gần đây dự báo trong năm 2020, tăng trưởng GDP toàn cầu âm 1,9%, Mỹ âm 3,3%, EU âm 4,2%, Trung Quốc chỉ tăng trưởng hơn 1,5%… IMF thì dự báo một loạt các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế âm trong năm 2020 như Đức (-3,4%), Pháp (-3,9%), Anh (- 3,1%),…
Đánh giá những tác động của dịch Covid-19 đến kinh tế toàn cầu, người đứng đâu IMF, bà Kristalina Georgieva, ngày 10-4 đã lên tiếng khuyến cáo rằng: Thế giới sẽ phải trải qua những hậu quả kinh tế tồi tệ nhất kể từ sau “Đại khủng hoảng” những năm 1930; và dự đoán kinh tế thế giới trong năm 2020 sẽ “tăng trưởng âm ở mức sâu”. Dự đoán này của IMF cho thấy bức tranh “đảo chiều” nhanh chóng khi mới cách đó hơn một tuần, trong một cuộc họp trực tuyến với WB, IMF vân đánh giá thu nhập bình quân đầu người của 160 nước sẽ tăng trở lại. Còn trước đó, vào tháng 1, IMF đã đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu ở mức 3,3% trong năm 2020 và 3,4% trong năm 2021.
Tổ chức Thương mại thê giới (WTO) ngày 8-4 cũng đưa ra thông cáo báo chí: “Thương mại sẽ giảm mạnh khi đại dịch Covid-19 đảo ngược kinh tế toàn cầu”. Trong thông cáo của mình, WTO dự đoán hoạt động thương mại thế giới sẽ giảm từ 13-30% trong năm 2020. Con số chính xác chưa có, nhưng WTO cho rằng khủng hoảng kinh tế toàn cầu lần này sẽ tệ hơn cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009. Ngoài ra, tổ chức này cũng nhận định rằng kinh tế toàn cầu có thể chưa thể hồi phục trong năm 2021. Suy thoái về thương mại và sản xuất đầu ra là không thể tránh khỏi và sẽ kéo theo những hậu quả ghê gớm tới từng hộ gia đình và doanh nghiệp, bên cạnh những mất mát về y tế…
Còn trên bài viết có tiêu đề “Tác động thực sự về kinh tế của đại dịch Covid-19″ đăng trên Project Syndicate, ông Dennis J. Snower, Chủ tịch Sáng kiến giải pháp toàn cầu (Global Solutions Initiative), hiện đang là giáo sư giảng dạy tại Đại học quản lý Hertie tại Berlin, Đức, đánh giá rằng, chúng ta đang đánh đổi lợi ích kinh tế để có an toàn về y tế và tệ hơn là Covid-19 “tấn công” tất cả các nền kinh tế trên thế giới, không trừ một ai. Theo ông Dennis J. Snower, vấn đề hiện nay không phải là suy giảm cầu tổng thể giống như đã từng xảy ra trong Đại suy thoái những năm 1930. Thực chất, đại dịch Covid-19 gây ra sự “khập khiễng” lớn về tăng trưởng kinh tế, trong đó rất nhiều ngành nghề sản xuất và phân phối hiện tại phải cắt giảm nhân công, trong khi có những ngành thì tuyển thêm nhân công không nổi.
Tờ The Atlantic thì khẳng định, hệ lụy về kinh tế sẽ tệ hơn những gì chúng ta có thể tượng tượng. So sánh với một “cơn sóng thần”, bài báo cho rằng số lượng việc làm mất đi và sự đình trệ trong hoạt động kinh tế hiện nay mới chỉ đang là khởi đầu mà thôi.
Trang số liệu Statista đưa ra những con số cụ thể về tình hình kinh tế thế giới nói chung. Theo những ước tính ban đầu, hầu hết các nền kinh tế lớn sẽ mất đi tối thiểu là 2,4% tỷ lệ tăng trưởng GDP trong năm 2020 và như vậy GDP toàn cầu sẽ giảm từ 2,4-3%. Để dễ hình dung, nếu GDP toàn cầu năm 2019 là 86,6 nghìn tỷ USD thì thế giới sẽ mất tới 2,6 nghìn tỷ USD trong năm 2020. Đó là chưa tính đến việc nếu không có đại dịch thì GDP toàn cầu còn tăng trưởng hơn so với con số 86,6 nghìn tỷ USD của năm 2019.
Biêu đô vê ảnh hưởng của dịch Covid-19 tới thị trường chứng khoán thê giới.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) mới đây cảnh báo, nếu “đại dịch tồi tệ nhất trong thế kỷ này” tiếp tục kéo dài trên 6 tháng nữa, tổn thất kinh tế đối với nền kinh tế thế giới có thể lên tới 4,1 ngàn tỉ USD, tương đương gần 5% sản lượng kinh tế toàn cầu.
Ông Nariman Beharavesh, nhà kinh tế trưởng thuộc tổ chức IHS Markit, nhận định: Đối với các thị trường mới nổi, đại dịch này tồi tệ hơn cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 trên nhiều phương diện. Giá hàng hoá giảm sâu hơn, tình trạng đình trệ tại các nước phát triển xấu đi và mức nợ ở các nền kinh tế mới nổi đã tăng nhiều kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008 vì tỉ lệ lãi suất thấp… Các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latin đang chịu thiệt hại do các biện pháp phong tỏa được đưa ra để ngăn chặn sự lây lan của virus này. Còn các thị trường xuất khẩu chủ chốt tại châu Âu và Bắc Mỹ hầu như đang bị “triệt tiêu” khiến kinh tế nội địa đứng yên, nhu cầu về hàng hóa như dầu mỏ sụt giảm và các đồng nội tệ mất giá…
Những tác đông tiêu cực đên nên kinh tê Viêt Nam
Việt Nam, với độ mở của nền kinh tế là 200% GDP, là một trong những nền kinh tế “mở” nhất thế giới, đang gặp khó khăn rất lớn vì đại dịch. Phát biêu tại Hội nghị trực tuyến với các địa phương về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh trong bôi cảnh dịch Covid-19 ngày 10-4, Thủ tướng Chính phủ Nguyên Xuân Phúc đã khẳng định: Nước ta, với đô mở nên kinh tê cao, nên dịch Covid-19 tác động rât mạnh và sâu rộng đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Trong quý I, GDP của Việt Nam chỉ tăng 3,82%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ, thấp nhất kể từ năm 2011. Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tê, con số này còn chưa phản ánh hết khó khăn của sản xuất kinh doanh từ cuối tháng 2 và trong tháng 3 năm 2020.
Dây chuyền sản xuất xúc xích tại Công ty Cổ phần Việt Nam Kỹ Nghệ Súc Sản.
Thừa nhân đại dịch Covid-19 là môt “thảm họa toàn cầu”, tác động rât nghiêm trọng đên nên kinh tế thê giới, TS Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh nhân định: Viêt Nam là một nền kinh tế hội nhập rất sâu rộng, song nhiêu nước đôi tác chủ chôt của ta như Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ… cũng đang “gông mình” chông dịch và đêu hứng chịu những tác đông trâm trọng. Chính vì vậy, Việt Nam là một trong những nền kinh tế chịu những tác động rất tiêu cực của đại dịch Covid-19.
Nhân mạnh tác động tiêu cực của dịch Covid-19 bao trùm gần như tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế, TS Võ Trí Thành phân tích, do cả tổng cầu và tổng cung đều “rơi”, nên tiêu dùng, ngoại trừ hàng hóa thiết yếu, cũng như đầu tư và xuất khẩu đều sụt giảm mạnh. Sản xuất kinh doanh đình trệ do lao động thiếu hụt. Các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ bị gián đoạn do các biện pháp “cách ly” địa giới trong từng và giữa các quốc gia để chống dịch. Hệ lụy tác động nghiêm trọng của dịch Covid-19 còn chưa thể tính toán đầy đủ bởi đây là thảm họa liên quan đến tính mạng, sức khỏe, tâm lý con người cũng như quy mô, thời gian kéo dài của dịch chưa thể xác định được…
Video đang HOT
Đánh giá những tác động của Covid-19 với kinh tế Việt Nam, TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương nhân mạnh, dịch bênh Covid-19 đã và đang làm cho nên kinh tê nước ta bị tác đông nhiêu mặt và lan tỏa lâu dài. Du lịch, xuât khâu, nhâp khâu đang gặp nhiêu vướng mắc, nhiêu doanh nghiêp “vướng” vê phụ tùng, linh kiên nguyên vât liêu đâu vào. Do đó, khả năng hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu vê kê hoạch phát triên kinh tê-xã hôi năm 2020 được Quôc hôi giao là rât khó khăn, đặc biêt là mục tiêu tăng trưởng kinh tê, thương mại, xuât nhâp khâu năm nay.
Các cửa hàng kinh doanh phải đóng cửa, tạm dừng kinh doanh vì Covid-19.
Đông quan điêm trên và phân tích thêm, PGS, TS Đỗ Hoài Linh, Viện Ngân hàng tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, công nghiệp và xây dựng là môt trong những ngành chịu ảnh hưởng nặng nê từ đại dịch. Theo đó, việc hạn chế xuất nhập cảnh giữa Việt Nam và Trung Quốc ngay sau kỳ nghỉ tết Nguyên Đán đã dẫn tới tình trạng thiếu nhân công để vận hành trong các doanh nghiệp FDI đến từ Trung Quốc, gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những tháng đầu năm 2020. Cùng với việc ngưng trệ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp FDI Trung Quốc thì các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ trong nước cũng sẽ bị ảnh hưởng do phụ thuộc vào sự phát triển của doanh nghiệp FDI. Và dù các doanh nghiệp đã chủ động nhập nguyên vật liệu trước Tết Nguyên đán, thiếu nguyên vật liệu đầu vào vân là tất yếu vì chúng ta phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên nhiên vật liệu nhập từ thị trường Trung Quốc.
Cùng với đó, nông nghiêp cũng là ngành chịu tác đông nặng nê từ đại dịch. Hiện tại Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ chính các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Do đó, theo PGS, TS Đỗ Hoài Linh, nếu tình trạng dịch bệnh kéo dài trong nhiều tháng thì tốc độ gia tăng giá trị tăng thêm của khu vực này sẽ chậm lại và có nguy cơ giảm mạnh, trong đó có mặt hàng trái cây tươi và thủy sản được dự báo sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Biêu đô thê hiên Viêt Nam phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên nhiên vật liệu nhập từ thị trường Trung Quốc.
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Tiên sĩ Nguyên Văn Thân thì đánh giá, dịch Covid-19 đang và sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh du lịch, việc thông thương, đi lại tại các cửa khẩu; vận tải, bán lẻ, ngoại thương, đầu tư và cả tài chính – ngân hàng. Thu ngân sách nhà nước cũng giảm sút, trong khi nhiệm vụ chi đột xuất cho công tác chống dịch bệnh này có thể tăng lên. Theo ước tính, dịch bệnh có thể làm giảm số thu ngân sách nhà nước năm 2020 từ 18.000-42.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương giảm thu khoảng 9.000-23.000 tỷ đồng; làm giảm tăng trưởng 0,55-0,84% GDP năm 2020.
Đáng chú ý, dưới góc nhìn từ “ngôi nhà chung” của công đông doanh nghiêp, TS Nguyên Văn Thân cho hay, trong bôi cảnh hiên nay, nhiêu doanh nghiêp rât khó khăn, thâm chí đóng cửa; nhiều doanh nghiệp bị thu hẹp các hoạt động sản xuất, kinh doanh và bị “đứt gãy” một số chuỗi cung ứng về nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ đầu ra sản phẩm của doanh nghiệp, nhất là trong các ngành dệt may và da giày, ngành nông sản, dịch vụ du lịch và bán lẻ… phụ thuộc nguyên liệu từ thị trường nước ngoài; dịch bệnh còn có thể làm gia tăng yêu cầu biện pháp bảo hộ thị trường phi thuế quan do lo ngại bùng nổ và tái phát dịch bệnh gắn với chất lượng hàng hóa, dịch vụ và yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm; một số hệ lụy khác sẽ đậm nét hơn nếu dịch bệnh kéo dài…
kịch bản cho sô người nhiêm Covid-19 tại Viêt Nam theo mô hình SIR được nhóm nghiên cứu Đại học Kinh tế quốc dân công bô mới đây.
Theo báo cáo đánh giá tác động của Covid-19 đến nền kinh tế của Trường Đại học Kinh tế quốc dân mới đây cho thây, có thể có 3 kịch bản diễn biến dịch Covid-19 thời gian tới. Đó là đại dịch Covid-19 kéo dài đến cuối tháng 4-2020, đến cuối tháng 5-2020 và đến cuối tháng 6-2020. Nhóm nghiên cứu dự báo GDP quý 2 năm nay chỉ tăng được khoảng 2% so với quý 2 năm 2019, chỉ số VnIndex giảm khoảng 28%, xuất khẩu giảm khoảng 25%. Theo kịch bản dịch kết thúc vào cuối tháng 4-2020, các lĩnh vực thương mại hàng hóa suy giảm 20-30%; dịch vụ y tế, dịch vụ thiết yếu tăng trên 25%; du lịch, khách sạn suy giảm 15-20% khách nội địa và quốc tế, giảm doanh thu 20%, việc làm giảm 15-20%; nông nghiệp suy giảm 2,8-27,4% theo từng mặt hàng; bất động sản suy giảm mảng cho thuê, nghỉ dưỡng.
Với kịch bản dịch kết thúc vào cuối tháng 6-2020, thương mại hàng hóa suy giảm 30-40%; dịch vụ y tế, dịch vụ thiết yếu tăng 25-40%; dịch vụ vận tải, logistics suy giảm 20-30%; ngành du lịch dịch vụ khách sạn giảm 30-40% khách nội địa và quốc tế, doanh thu giảm 40%, việc làm giảm 30-40%; nông nghiệp, bất động sản cùng suy giảm.
Trường hợp dịch Covid-19 kéo dài đến hết tháng 4-2020, có 49,2% doanh nghiệp vẫn duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh, 31,9% cắt giảm quy mô sản xuất, có 18,1% phải tạm dừng hoạt động và 0,8% có khả năng phá sản.
Những chỉ sô kinh tê được dự báo khi kịch bản dịch Covid-19 kết thúc vào cuối tháng 6-2020.
Nhưng nếu dịch kéo dài đến hết tháng 6-2020, chỉ còn 14,9% doanh nghiệp duy trì được hoạt động, 46,6% doanh nghiệp tiếp tục cắt giảm quy mô, 32,4% sẽ tạm dừng hoạt động và 6,1% doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản. Trường hợp dịch kéo dài đến hết tháng 9-2020, sẽ có 19,3% doanh nghiệp phá sản, kéo dài đến hết năm 2020 khoảng 39,3% doanh nghiệp sẽ phá sản.
Các “tư lệnh ngành” nói gì?
Trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát mạnh mẽ, diễn biến phức tạp trên toàn cầu, kinh tế thế giới suy giảm nhanh và ngày càng nghiêm trọng, nên dù chưa có thông kê đây đủ, song có thê thây, dịch Covid-19 đã thực sự kìm hãm tôc đô tăng trưởng kinh tê nước ta trong những tháng đâu năm 2020, nhiêu chỉ sô giảm so với cùng kỳ năm trước.
Bô trưởng Bô Kê hoạch và Đâu tư Nguyên Chí Dũng đánh giá, tác động của dịch Covid-19 đôi với Việt Nam là “rất nghiêm trọng”. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I ước chỉ tăng 3,82% so với cùng kỳ, thấp nhất từ năm 2011 tới nay.
Theo Bô trưởng Nguyên Chí Dũng, dịch càng kéo dài, ảnh hưởng đến nền kinh tế càng nghiêm trọng hơn. Mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 6,8% là rất thách thức và khó đạt được. Trường hợp dịch được khống chế trong quý II, tăng trưởng GDP dự báo đạt khoảng 5,32% và trường hợp dịch kéo dài hết đến quý III thì tăng trưởng GDP dự báo là 5,05%. Một số chỉ tiêu vĩ mô có nguy cơ bị tác động mạnh như: Chỉ số giá tiêu dùng bình quân (CPI) cả năm có thể tăng trên 4% nếu không có các giải pháp điều hành giá quyết liệt; thu ngân sách nhà nước có thể giảm 145.000 tỷ đồng; xuất nhập khẩu, đầu tư của khu vực tư nhân và FDI giảm mạnh do “cầu” của thế giới giảm mạnh, các nhà đầu tư có xu hướng thận trọng trong quyết định đầu tư và chuyển hướng đầu tư an toàn hơn…
Nhân viên sản xuât tại nhà máy Samsung Electronics.
Trước những diên biên phức tạp của đại dịch, Bô trưởng Bô Công Thương Trân Tuân Anh cũng thừa nhân, kinh tê nước ta đang phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, trong đó những mảng lớn liên quan đến thương mại, hội nhập của Việt Nam sẽ bị tác động rất mạnh mẽ.
Vê các chỉ tiêu cụ thê đáng chú ý, Bô trưởng Trân Tuân Anh cho biêt, tăng trưởng xuất khẩu trong quý I năm 2020 đạt mức thấp nhất kể từ năm 2003 đến nay. Xuất khẩu chậm lại cũng kéo theo kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giảm 1,9% so với quý I năm 2019, ước đạt 56,26 tỷ USD (cùng kỳ tăng 7,7%).
Đặc biêt, về sản xuất công nghiệp, chỉ số PMI của Việt Nam đã giảm mạnh từ 49,0 điểm của tháng 2 về 41,9 điểm trong tháng 3. Theo kết quả khảo sát, dịch bênh đã khiến cả số lượng đơn đặt hàng mới và sản lượng đều giảm đáng kể trong tháng 3. Cả hai chỉ số đã giảm với tốc độ nhanh nhất trong lịch sử chỉ số, với tổng số lượng đơn đặt hàng mới giảm gần tương đương với số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới.
Theo Bô trưởng Trân Tuân Anh, ngành công nghiệp phải chịu “khó khăn kép” về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất và thị trường xuất khẩu, tiêu thụ hàng hóa, nhất là ngành chế biến, chế tạo, sản xuất, xuất khẩu sử dụng nhiều nguyên, vật liệu, phụ kiện xuất xứ từ nước ngoài và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động, sản xuất ở Việt Nam. Ngoài ra, những diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp, thể hiện ở mức gia tăng thấp của số doanh nghiệp thành lập mới, việc giảm sút về số vốn bổ sung hoặc cam kết đưa vào kinh doanh, quy mô doanh nghiệp và sự gia tăng mạnh mẽ của số doanh nghiệp ngừng hoạt động trong ngắn hạn..
Cùng với đó, dịch Covid-19 cũng làm ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều mặt hàng thiết yếu khiến cho tiêu thụ các mặt hàng gặp khó khăn do nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu giảm. Ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ 3 tháng đạt khoảng 1.246 nghìn tỷ đồng, tăng 4,67% so với cùng kỳ năm 2019- đây là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm gần đây.
Dịch Covid-19 cũng làm ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều mặt hàng thiết yếu khiến cho tiêu thụ các mặt hàng gặp khó khăn.
Thu hút đầu tư nước ngoài cũng bị ảnh hưởng khi 2 tháng đầu năm, vốn FDI thực hiện giảm 5% (đây là lần giảm đầu tiên trong giai đoạn 2016 – 2020); vốn FDI đăng ký mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài giảm 23,6% so với cùng kỳ năm trước…
Liên tiêp hứng chịu những cú sôc do dịch tả lợn châu Phi hay xâm nhâp mặn, hạn hán từ trước, nên theo Bô trưởng Bô Nông nghiêp và Phát triên nông thôn Nguyên Xuân Cường, ngành nông nghiêp rõ ràng đang hứng chịu những tác đông trực diên tử đại dịch Covid-19. Sản xuất và xuất khẩu nông sản bị tổn thất rất lớn bởi Trung Quốc là thị trường khổng lồ của Việt Nam, trong đó có những nhóm nông sản chiếm tỷ trọng lớn như rau quả (chiếm 80%). Bên cạnh đó, dịch bênh cũng ảnh hưởng tới đầu tư vào nông nghiệp giữa hai nước do các hiệp định đang đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ bị chậm lại…Cùng với sự hạn chế giao dịch hàng hóa tại các cặp chợ biên giới, sẽ có những tác động tiêu cực đến thương mại nông lâm thủy sản hai nước Việt Nam và Trung Quốc….Điêu này được thê hiên rõ trong báo cáo vê ngành nông nghiệp của Bô Kê hoạch và Đâu tư. Theo đó, quý I năm 2020, nông nghiêp tăng trưởng âm (-1,17%), chỉ cao hơn mức tăng trưởng của quý I năm 2016 (-2,69%) trong giai đoạn 2011-2013. Giá trị xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản giảm, như: rau quả; cà phê; chè; sắn và sản phẩm của sắn…
Ngành du lịch cũng gặp khó hơn bao giờ hêt. Ngày nay, du lịch là một ngành kinh doanh toàn cầu khổng lồ, chiếm 10,4% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu và 10% việc làm toàn cầu.
Thế nhưng, hết quý I, khách quốc tế đến Việt Nam sụt giảm mạnh, đạt 3,69 triệu lượt, giảm 18,1%. Và theo dự báo, du lịch Việt Nam ước thiệt hại 5-7 tỷ USD trong 6 tháng đâu năm 2020…Theo đánh giá của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, dịch Covid-19 xảy ra vào đúng mùa cao điểm khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và mùa du lịch lễ hội nên đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành. Du lịch Việt Nam sẽ bị thiệt hại nặng nề, và chắc chắn sẽ không đạt mục tiêu đón 20,5 triệu lượt khách quốc tế trong năm 2020. Khách Trung Quốc chiếm hơn 30% tổng lượt khách quốc tế trong năm 2019 sẽ giảm mạnh.
Các ngành “ăn theo” du lịch là vận tải hàng không, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, bán lẻ… cũng giảm tăng trưởng, hoặc tăng trưởng âm. Vietnam Airlines cho biết, hàng chục máy bay “đắp chiếu” và hàng trăm phi công dư thừa do dịch bênh. Nhiều đường bay “vàng” đến các nước Đông Bắc Á, đón lượng khách du lịch dồi dào, cũng dừng khai thác… Theo ước tính, thiệt hại do việc cắt giảm đường bay khiến ngành hàng không Việt thiệt hại hơn 30.000 tỷ đồng (khoảng 1,3 tỷ USD).
Lĩnh vực giáo dục-đào tạo cũng không nằm ngoài tác đông của đại dịch. Thứ trưởng Bô Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng cho hay, các cơ sở giáo dục dưới sự tác động của dịch Covid-19 đang gặp rất nhiều khó khăn, thiệt hại lớn và các ảnh hưởng tiêu cực khó lường khác. Dịch bùng phát đã ảnh hưởng đến đời sống của nhiều giáo viên; mất cân đối thu chi ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Ngoài ra, theo ước tính của ngành giáo dục, riêng chi phí lương cho 103.863 cán bộ quản lý, giáo viên ngoài công lập theo mức lương bình quân tối thiểu vùng là 400 tỷ/tháng; chi phí thuê mặt bằng của 3.702 cơ sở giáo dục ngoài công lập từ mầm non, tiểu học, THCS, THPT đến cao đẳng sư phạm, đại học cũng từ 450-500 tỷ đồng/tháng…
Còn theo thông kê của Bô Lao đông, Thương binh và Xã hôi, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã khiến nhiều doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động, cắt giảm nhân sự nên số lượng người lao động thất nghiệp tăng cao. Trong tháng 2-2020, khoảng 10% doanh nghiệp phải cắt giảm quy mô sản xuất. Đặc biệt, chỉ 2 tuần đầu tháng 3, khi dịch Covid-19 có diễn biến phức tạp, trên 15% doanh nghiệp cắt giảm quy mô sản xuất… Nếu dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến xấu thì số lao động bị giảm giờ làm bị hoặc mất việc làm là từ 440.000 đến 1,32 triệu lao động.
Bô Kê hoạch và Đâu tư đánh giá năm 2020 sẽ là năm rất khó khăn đối với kinh tế Việt Nam. Tuy Việt Nam đang được đánh giá đã tổ chức phòng chống, dập dịch có hiệu quả và có thể kết thúc dịch sớm hơn so với các nước khác song các tác động và ảnh hưởng của dịch vẫn tiếp tục kéo dài đối với kinh tế Việt Nam trong trường hợp dịch chưa kết thúc trên thế giới. Do vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2020 sẽ thấp hơn mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,8% như đã đề ra.
(Còn nữa)
NHÓM PHÓNG VIÊN BÁO QĐND ĐIÊN TỬ
Chưa từng có thời Covid-19, giá gạo xuất khẩu điều chỉnh theo tuần
Gạo có lẽ là một trong số ít mặt hàng không bị tác động nhiều bởi dịch viêm phổi cấp Covid-19 khi cả giá trị và sản lượng xuất khẩu đều tăng đáng kể so với cùng kỳ năm 2019. Giữa lúc dịch Covid-19 hoành hành ở nhiều quốc gia, lần đầu tiên, giá gạo xuất khẩu được điều chỉnh theo tuần thay vì theo tháng hay quý như thông lệ.
Covid-19 chưa ảnh hưởng đến ngành gạo
Theo Reuters, giá gạo 5% tấm của Việt Nam trong tuần đầu tháng 3/2020 tăng từ mức 365 - 375 USD/tấn lên 390 - 400 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 12/2018 nhờ nhu cầu mạnh mẽ từ các thị trường Philippines, Malaysia, Cuba, châu Phi,...
Trước đó, chỉ 1-2 tuần, giá gạo 5% tấm (IR 50404) của Việt Nam từ 355- 360 USD/tấn (FOB) nhảy vọt lên 380 USD/tấn, loại 15% tấm và 25% tấm thấp hơn 10 USD/tấn cho mỗi loại.
"Ông trời không lấy đi của ai tất cả bao giờ" - ông Phan Xuân Quế, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng Công ty Lương thực Miền Bắc ví von.
2 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu gạo của Việt Nam khá khả quan mặc những tác động của dịch Covid-19. Ảnh: I.T
Trong bối cảnh khó khăn chung của ngành nông nghiệp, nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu khó khăn do những biện pháp kiểm soát ngặt nghèo phòng ngừa Covid-19, ngành chế biến, xuất khẩu lúa gạo vẫn tìm thấy đường đi của mình, trở thành điểm sáng xuất khẩu trong 2 tháng đầu năm 2020.
Con số kim ngạch xuất khẩu trong 2 tháng đầu năm 2020 đạt 900.000 tấn, giá trị kim ngạch 410 triệu USD, tăng 27% về lượng và 32% về giá trị là điều mà những doanh nghiệp làm trong ngành kinh doanh, xuất khẩu gạo mong ước từ mấy năm nay.
Bởi suốt 2 năm 2018-2019, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường đến từ các "trung tâm gạo" mới nổi như Ấn Độ, Myanmar... đã khiến hạt gạo Việt chật vật trên con đường khẳng định vị thế.
Nhưng thật bất ngờ, sau Tết Nguyên đán 2020, thị trường gạo trở nên sôi động chưa từng có. "Giá gạo xuất khẩu tăng cực nhanh và tăng đều ở tất cả các mặt hàng, phân khúc chứ không chỉ ở sản phẩm cấp cao, thời gian điều chỉnh giá nhanh, lần đầu tiên, giá gạo xuất khẩu được điều chỉnh theo tuần chứ không phải theo tháng hay quý như thông lệ. Có những tuần, giá gạo tăng tới 30 - 50 USD/tấn" - ông Quế nói.
"Hiện, giá gạo của Việt Nam đã thu hẹp khoảng cách với gạo Thái Lan, cao hơn gạo của Ấn Độ, Myanmar, Pakistan,... Đây là điều hiếm gặp. Nếu thị trường khả quan, chắc chắn mục tiêu xuất khẩu 6,7 triệu tấn, kim ngạch trên 3 tỷ USD của ngành lúa gạo hoàn toàn có thể đạt được" - ông Quế nói.
Theo ông Phan Xuân Quế, thị trường xuất khẩu gạo sôi động ngay từ những tháng đầu năm 2020 là do nhu cầu tăng cao đột biến của thị trường khi Trung Quốc - thị trường chi phối 3 triệu tấn gạo của thế giới buộc phải hạn chế xuất khẩu do ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Trong khi đó, Thái Lan buộc phải giảm mục tiêu xuất khẩu xuống còn 7 triệu tấn do ảnh hưởng nghiêm trọng của hạn hán. "Các nước tăng cường nhập khẩu gạo, các hợp đồng lớn liên tục bay về" - ông Quế phấn khởi chia sẻ.
Tuy nhiên, ngoài nguyên nhân khách quan về nhu cầu thị trường, theo ông Quế, điều giúp ngành chế biến, xuất khẩu gạo không bị tác động bởi Covid-19 là do không còn phụ thuộc vào một thị trường Trung Quốc nhờ đa dạng hóa sản phẩm, có thể cung cấp được nhiều phân khúc sản phẩm cho thị trường.
"Bài học về gạo nếp phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc vài năm trước vẫn còn nguyên giá trị, gạo Việt đã từng bước đa dạng hóa, mở rộng thị trường, nâng cao sức cạnh tranh bằng chất lượng" - ông Quế nói.
Nhu cầu thế giới sẽ tăng
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) yêu cầu các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo phải đảm bảo bình ổn giá thóc, gạo trong nước. Ảnh: I.T
Trong văn bản báo cáo Thủ tướng về kết quả xuất khẩu gạo năm 2019 và định hướng năm 2020, Bộ Công Thương cho biết, năm 2020, xuất khẩu gạo đối mặt với diễn biến khó lường, đa chiều của các yếu tố thị trường, tình hình dịch bệnh, thiên tai.
Về khó khăn, thị trường toàn cầu chưa có dấu hiệu khởi sắc do dịch bệnh tại Trung Quốc lan rộng. Diễn biến của dịch Covid-19 là nguyên nhân tác động đến khả năng xuất khẩu gạo và khả năng, nhu cầu, thời điểm nhập khẩu gạo của Trung Quốc.
Hiện nay, do lo ngại dịch bệnh Covid-19, nhiều hãng tàu không nhận đơn vận chuyển và nhiều giao dịch đều được yêu cầu chuyển cảng nhận hàng. Điều này sẽ làm phát sinh chi phí vận chuyển.
Trong khi đó, thị trường Philippines lại tăng cường kiểm soát nhập khẩu thông qua động thái tiến hành "đánh giá lại Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm đối với gạo xay xát nhập khẩu vào Philippines" và cử đoàn đành giá làm việc tại Việt Nam sẽ tạo ra không ít tác động đến tâm lý của thị trường gạo Việt Nam khi Philippines là thị trường truyền thống, hàng năm có nhu cầu nhập khẩu lớn từ Việt Nam.
Việc tiếp cận nguồn vốn để sản xuất, kinh doanh của các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo còn hạn chế do tính rủi ro cao của ngành nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh, biến động khó lường của thị trường và không có trước hợp đồng xuất khẩu gạo.
Tuy nhiên, dự báo, thương mại gạo toàn cầu năm 2020 là 46,0 triệu tấn, tăng 2% so với dự báo năm 2019; nhập khẩu gạo sẽ gia tăng tại Philippines, châu Phi cận Sahara và Indonesia. Trong khi đó, sản lượng gạo của Thái Lan giảm so với mọi năm do hạn hán.
Đây là cơ hội để doanh nghiệp Việt tận dụng, cạnh tranh về giá tại các thị trường, nhất là một số thị trường gạo trung chuyển lớn như Singapore, Hồng Kông. Cùng với việc giá gạo của Thái Lan đang ở mức cao đây có thể là cơ hội để gạo Việt Nam tiếp tục thâm nhập, mở rộng thị phần tại thị trường này.
Đó là chưa kể, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) sẽ có hiệu lực vào tháng 7/2020,việc tận dụng hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm mà EU dành cho Việt Nam sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam thu hẹp bất lợi trong cạnh tranh và mở rộng thị trường gạo cao cấp này.
Từ thực tế này, Bộ Công Thương kiến nghị Thủ tướng giao Bộ NNPTNT theo dõi, thống kê sát thực về tình hình sản xuất, cơ cấu, sản lượng, nguồn thóc, gạo hàng hóa theo từng chủng loại, từng mùa vụ trong năm và thường xuyên cập nhật với Bộ Công Thương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam và UBND các tỉnh để định hướng sản xuất, cân đối nguồn thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động cân đối nguồn vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của thương nhân đầu tư xây dựng kho chứa, cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo, cơ sở sấy thóc tại vùng nguyên liệu; thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo xây dựng vùng nguyên liệu; người sản xuất lúa trong vùng nguyên liệu, người sản xuất lúa có liên kết sản xuất.
Bộ Công Thương tiếp tục tăng cường tìm kiếm, mở rộng thị trường, thực hiện chương trình xúc tiến thương mại đối với mặt hàng gạo tại các thị trường có khả năng chuyển đổi, trong đó chú trọng các thị trường mới, tiềm năng như châu Phi, Trung Mỹ...
Theo Danviet
Fedex - giấc mơ "không tưởng" trở thành công ty phát triển nhanh nhất thế giới FedEx đã đi vào lịch sử trong ngành kinh doanh dịch vụ chuyển phát nhanh khi cán mốc doanh thu hơn 1 tỷ USD chỉ sau 10 năm thành lập từ năm 1971 mà không cần thông qua hoạt động mua bán hay sáp nhập với công ty khác. Tuy nhiên, ít ai biết rằng, doanh nghiệp có tốc độ phát triển nhanh...