Tiến bộ về giảm đau sau mổ và gây tê
Mỗi cuộc phẫu thuật dù lớn hay nhỏ đều phải có kíp gây mê hồi sức. Nhiệm vụ của bác sĩ gây mê hồi sức là làm cho người bệnh không đau và duy trì an toàn các chức năng sống của cơ thể trong và sau cuộc phẫu thuật.
Hồi sức gây mê giúp nâng cao chất lượng phẫu thuật
Có phẫu thuật lớn, phẫu thuật nhỏ nhưng không có cuộc gây mê nhỏ. Trước đây khi chỉ có phương tiện kỹ thuật thô sơ, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, các bác sĩ gây mê hồi sức chỉ quan tâm làm thế nào giữ an toàn tính mạng của người bệnh qua cuộc phẫu thuật. Chất lượng gây mê, chất lượng hồi tỉnh, chất lượng giảm đau sau mổ cũng như hồi phục sau mổ chưa được quan tâm đúng mức.
Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật yêu cầu đặt ra cho người làm gây mê hồi sức không chỉ là giữ an toàn mà còn phải nâng cao được chất lượng cuộc phẫu thuật như: Tối ưu hóa bệnh nhân trước mổ, chống buồn nôn và nôn sau mổ, chống đau, vận động sớm sau mổ, giúp bệnh nhân nhanh hồi phục, giảm thiểu đau đớn, khó chịu cho bệnh nhân. Có thể nói rằng chuyên ngành gây mê hồi sức là 1 trong 10 phát kiến vĩ đại của y học trong thế kỷ 20 cho tới nay.
Kỹ thuật giúp bệnh nhân giải thoát gánh nặng cơn đau
Tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, mỗi năm có hàng chục ngàn bệnh nhân được phẫu thuật, những đau đớn trong và sau mổ mà người bệnh phải trải qua luôn là trăn trở của các bác sĩ.
Ngoài việc phát triển những mảng chuyên sâu như gây mê hồi sức cho phẫu thuật ghép tạng (gan, phổi, tim, khối tim phổi,…), phẫu thuật tim mạch – lồng ngực, chấn thương chỉnh hình, ngoại thần kinh, tạo hình hàm mặt, tiêu hóa, gan mật, tiết niệu…; một trong các mũi nhọn Khoa Gây mê hồi sức nơi đây đang tập trung phát triển là mảng “điều trị đau”.
Đào tạo kỹ thuật giảm đau sau phẫu thuật tại BVTWQĐ 108.
Video đang HOT
Mô hình điều trị đau hiện nay bệnh viện thường áp dụng là “đa mô thức”. Gây mê cân bằng, điều trị đau ngay trước khi bệnh nhân tỉnh, phối hợp nhiều loại thuốc và kỹ thuật gây tê kết hợp trước trong và sau mổ, theo dõi sát sau mổ để có các biện pháp giảm đau phù hợp cho từng người bệnh.
Từ năm 2015,bệnh viện đã áp dụng gây tê vùng dưới hướng dẫn siêu âm điều trị đau trong và sau mổ – đây là kỹ thuật rất mới trên thế giới và cũng chỉ mới được một số bệnh viện lớn tại Việt Nam áp dụng.
Trong 2 thập kỷ trở lại đây, việc ứng dụng siêu âm trong các kỹ thuật gây tê vùng đã phát triển nhanh chóng, đem lại nhiều lợi ích cho người bệnh và nhân viên y tế. Khi thực hiện gây tê dưới hướng dẫn siêu âm, bác sĩ gây mê có thể quan sát được chính xác dây thần kinh, vị trí tiêm thuốc nhờ đó giảm thiểu được các tai biến, biến chứng, như; tổn thương dây thần kinh, tiêm thuốc vào mạch máu gây ra ngộ độc thuốc tê, tiêm thuốc không đúng vị trí dẫn đến thất bại trong kỹ thuật.
Những kỹ thuật gây tê vùng dưới hướng dẫn siêu âm đang được phát triển và thực hành hiện nay: Gây tê và đặt catheter truyền thuốc liên tục đám rối thần kinh cánh tay qua đường gian cơ bậc thang, đường trên xương đòn giảm đau trong và sau mổ cho các phẫu thuật vùng cánh tay, cẳng tay và bàn tay.
Gây tê và đặt catheter truyền thuốc liên tục khoang cạnh cột sống ngực, cơ dựng sống giảm đau trong và sau phẫu thuật lồng ngực như mổ lồng ngực, trung thất mổ cắt phổi. Gây tê và đặt catheter truyền thuốc liên tục cơ vuông thắt lưng.
Gây tê bao cơ thẳng bụng giảm đau trong và sau mổ cho các phẫu thuật bụng như cắt gan, cắt thận, cắt dạ dày, phẫu thuật đại trực tràng.
Gây tê và đặt catheter truyền thuốc liên tục dây thần kinh đùi giảm đau cho các phẫu thuật kết hợp xương đùi, phẫu thuật vùng đầu gối…
Thuốc tê được đưa chính xác vào thân thần kinh và khu vực thần kinh chi phối cảm giác đau bằng cách tiêm liều đơn, truyền liên tục, do bệnh nhân tự điều khiển làm bệnh nhân không còn cảm giác đau trong những ngày sau mổ giúp người bệnh cảm thấy thoải mái chóng hồi phục sức khỏe, giảm thiểu các biến chứng sau mổ.
Đừng coi thường việc tiêm thuốc tê khi nhổ răng
Một số trường hợp nôn nóng nhổ răng sâu khi răng đau nhức, nhiễm trùng có thể dẫn đến tình trạng ngộ độc thuốc tê hoặc nhiễm trùng trầm trọng hơn.
Hơn một tuần trước, anh NVT (34 tuổi, ngụ quận Thủ Đức, TP.HCM) cảm thấy đau nhức răng hàm, không ăn uống gì được. Anh đến một cơ sở y tế để xem xét và nhổ răng.
Đang nhổ răng, người lạnh toát
Sau khi xem xét tình trạng của anh T., bác sĩ nhận thấy có tình trạng nhiễm trùng ổ răng nên kê thuốc kháng sinh cho anh uống và hẹn tái khám. Khi về nhà, anh T. liên tục đau nhức và nôn nóng quay lại để nhổ cái răng đau hành khổ sở. Tại đây, đáp ứng yêu cầu của anh, bác sĩ đã cho anh nhổ.
Anh được chích thuốc gây tê, khi đang được tiến hành các thao tác đục để lấy răng ra hơn 30 phút thì anh T. cảm thấy chóng mặt, người lạnh toát. Các y, bác sĩ thấy vậy đã đưa anh lên phòng cấp cứu và cho anh uống thuốc giảm đau. Khi cảm thấy đỡ, anh xin về công ty để làm việc tiếp thì bị đau đầu, chóng mặt, khó thở, tức ngực nên vào BV quận Thủ Đức gần đó cấp cứu. Tại đây, các bác sĩ chẩn đoán anh bị ngộ độc thuốc tê, truyền dịch, cho nghỉ ngơi và sau một ngày được xuất viện.
ThS-BS CKII Hoàng Ngọc Ánh, Phó Trưởng Khoa hồi sức tích cực - chống độc BV Thống Nhất (TP.HCM), cho biết thỉnh thoảng có tiếp nhận một số bệnh nhân bị phản ứng phản vệ hoặc ngộ độc thuốc tê sau khi tiêm thuốc tê để nhổ răng. Các bệnh nhân nhập viện trong tình trạng nôn ói, huyết áp tụt, có trường hợp nhập viện trễ đe dọa tính mạng.
Theo BS Ánh, phản ứng phản vệ nặng có thể dẫn đến sốc phản vệ, ngừng tim và tử vong. BS Ánh khuyến cáo nhổ răng sâu tuy là kỹ thuật đơn giản nhưng có sử dụng thuốc tê, người dân nên tìm đến các cơ sở nha khoa uy tín, bác sĩ có tay nghề cấp cứu khi bệnh nhân gặp phản ứng phản vệ hoặc ngộ độc thuốc tê.
Người dân nên đến các cơ sở nha khoa uy tín để khám, chữa răng. Trong ảnh:Khám răng tại Trung tâm Y tế quận Thủ Đức, TP.HCM. Ảnh: PV
Vì sao không nên nhổ răng bị nhiễm trùng?
Theo ThS-BS Phan Hoàng Hải, giảng viên thỉnh giảng ĐH Y Dược (TP.HCM), giám đốc điều hành một trung tâm nha khoa, nhổ răng sâu là một thủ thuật đơn giản, không quá phức tạp. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có chỉ định sâu răng phải nhổ vì việc mất răng, chưa trồng lại kịp thời có thể làm thay đổi cả hệ thống nhai, đó là chưa kể đa số trường hợp răng sâu có thể được phục hồi.
Cụ thể, khi răng có ổ nhiễm trùng, các bác sĩ thường sẽ chỉ định dời lịch nhổ. Vì khi đó răng có ổ nhiễm trùng, gây tê sẽ rất khó khăn (hiệu quả gây tê giảm) vì vùng bị nhiễm trùng thường không có tác dụng với thuốc tê và có khả năng làm khuếch tán ổ nhiễm trùng ra các mô xung quanh.
Nếu không điều trị nhiễm trùng, ổ nhiễm trùng này sẽ dễ phát triển thành viêm mô tế bào, phát tán ra các khoang của vùng hàm mặt, trong khi đó vùng hàm mặt chứa các nhánh động mạch lớn nên can thiệp nhổ răng vào thời điểm này rất nguy hiểm. Để xử trí trước khi nhổ răng có ổ nhiễm trùng, bác sĩ thường kê toa thuốc kháng sinh cho bệnh nhân để khu trú ổ mủ lại, ngăn ngừa nguy cơ nhiễm trùng máu, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng trước khi cân nhắc thủ thuật nhổ răng.
Ngoài ra, tùy vào tình trạng răng và cơ địa của mỗi bệnh nhân, có trường hợp các bác sĩ sẽ xử lý dễ dàng răng bị sâu. Tuy nhiên, trên cơ địa bệnh nhân cao huyết áp, có bệnh lý nhiễm trùng hoặc bệnh toàn thân khác, nhổ răng cũng có khả năng làm trầm trọng hơn tình trạng bệnh hiện tại.
Chưa kể là quá trình phẫu thuật nếu không áp dụng kỹ thuật, dụng cụ, máy móc phù hợp có thể khiến bệnh nhân tràn khí dưới niêm mạc, dưới da làm cho bệnh nhân khó thở, nghẹt thở hoặc chảy nhiều máu sau phẫu thuật gây phù nề, đè ép đường thở của bệnh nhân.
Trong quá trình tiểu phẫu thuật, bệnh nhân có thể xảy ra các biến chứng như lo lắng làm tăng huyết áp, dung nạp lượng lớn thuốc tê do quá liều có thể gây sốc, ngộ độc dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. Do đó, bệnh nhân trước khi phẫu thuật cần biết tình trạng sức khỏe chung của mình và kịp thời báo cho bác sĩ về tiền sử dị ứng (thuốc, thức ăn) cũng như những loại thuốc đặc trị bệnh toàn thân đang sử dụng.
Cần được xem xét các bệnh lý về máu
Trước khi nhổ răng, bệnh nhân cần được xem xét các bệnh lý về máu như xét nghiệm máu và đông cầm máu, phân tích máu tổng quát. Một số loại thuốc điều trị bệnh toàn thân hoặc bệnh lý cũng có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình đông cầm máu và lành thương sau phẫu thuật như đái tháo đường, loãng xương, bệnh lý động mạch vành, hẹp van tim...
Mẹo chữa hóc xương cá nhất định phải biết Hóc xương cá là tai nạn mà đôi khi không may bạn có thể gặp phải. Nhưng không phải ai cũng biết cần làm gì trong tình huống này. 1. Vitamin C Vitamin C có trong vỏ cam cho nên chúng có tác dụng giống như vỏ cam là sẽ làm mềm xương cá. Do đó nếu không có vỏ cam, hoặc bạn...