Tiêm kích Su-30MK2 Việt Nam diệt tàu chiến thế nào?
Tiêm kích đa năng hiện đại nhất Việt Nam Su-30MK2 trang bị tên lửa chống tàu siêu thanh Kh-31A có khả năng phá hủy, gây hư hỏng nặng tàu chiến mặt nước.
“Sát thủ diệt hạm” của Su-30MK2
Kh-31A là biến thể dùng cho nhiệm vụ chống tàu của gia đình tên lửa Kh-31 (NATO định danh là AS-17 Krypton), được phóng từ các máy bay tiêm kích Su-30/33/35, MiG-29. Đây là một tên lửa hành trình chống tàu tốc độ cao được thiết kế dựa trên tên lửa chống radar Kh-31P.
Kh-31A còn được biết đến với tên gọi “Mini Moskit” bởi nó có hình dáng bên ngoài rất giống với tên lửa chống tàu siêu thanh P-270 Moskit, được trang bị trên các tàu chiến mặt nước.
Tên lửa được phát triển bởi Phòng thiết kế Zvezda-Strela (nay là Tổng công ty tên lửa chiến thuật Nga KTRV) vào năm 1982, được chấp nhận đưa vào sử dụng từ năm 1988.
Tên lửa chống tàu siêu thanh Kh-31A (trong ảnh) có thể trang bị cho tiêm kích Su- 30MK2 Việt Nam.
Theo dữ liệu Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockhom (SIPRI), năm 2009 Việt Nam ký hợp đồng với Nga mua 80 quả đạn Kh-31A trang bị cho tiêm kích Su-30MK2 đảm nhiệm vai trò tác chiến trên biển. Toàn bộ tên lửa được chuyển giao trong năm 2011-2012.
Tên lửa chống tàu Kh-31A nặng 610kg, dài 4,7m, đường kính thân 0,36m, lắp đầu đạn thuốc nổ nặng 94kg. Quả đạn được kết cấu với 4 cánh ổn định trên thân, 4 cánh lái đuôi. Trên thân tên lửa còn có 4 cửa hút không khí sử dụng cho động cơ ramjet (phản lực tĩnh siêu âm).
Khi phóng, giai đoạn đầu động cơ khởi tốc được khởi động trước đưa tên lửa Kh-31A đạt tốc độ Mach 1,8. Sau đó, động cơ hành trình ramjet mới được kích hoạt đưa tên lửa đạt tới tốc độ gấp 4,5 lần vận tốc âm thanh ở độ cao lớn (khoảng 4.950km/h) hoặc 2.970km/h ở độ cao thấp, tầm bắn đạt 25-50km. Có thể nói, Kh-31A là tên lửa hành trình chống tàu phóng từ trên không đạt tốc độ nhanh nhất thế giới hiện nay.
Su-30MK2 dùng Kh-31A thế nào?
Trong nhiệm vụ chống địch trên biển, tiêm kích Su-30MK2 có khả năng mang tối đa 2 quả đạn tên lửa chống tàu Kh-31A.
Video đang HOT
Khi radar trên tiêm kích Su-30MK2 phát hiện ra mục tiêu tàu chiến đối phương xâm nhập vùng biển, dữ liệu về mục tiêu sẽ được radar và truyền cho tên lửa, mục tiêu có thể được khóa trước khi phóng hoặc sẽ khóa ở pha cuối (tiếp cận mục tiêu). Tên lửa được dẫn hướng đến mục tiêu kết hợp giữa dẫn hướng quán tính và đầu tự dẫn radar chủ động.
Kh-31A được trang bị đầu tự dẫn radar chủ động ARGS-31 cho nhiệm vụ khóa mục tiêu ở pha cuối. Radar có khả năng quét góc phương vị 45 độ, góc tà từ 10-20 độ, khóa mục tiêu từ cự ly 20km. Ngoài ra, tên lửa còn được trang bị một radar đo độ cao KTRV-Detal A-069A hoạt động từ độ cao 100-6.000m cho nhiệm vụ bay lướt biển.
Tên lửa Kh-31A được phóng từ tiêm kích Su-30MK2 thông qua hệ thống phụ điều khiển vũ khí SUV-VEP từ bệ phóng AKU-58AE.
Mỗi tiêm kích Su-30MK2 Việt Nam có thể mang tối đa 2 đạn Kh-31A cho phép vô hiệu hóa tàu chiến cỡ lớn. Ảnh minh họa
Một khi đã khóa mục tiêu, tên lửa hạ thấp độ cao và lao đến với tốc độ lên đến 2.970km/h làm cho việc đánh chặn trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”. Theo các tính toán, khi bị tấn công bằng Kh-31A tàu chiến đối phương chỉ có 15-20 giây để đưa ra biện pháp đánh chặn, sau thời điểm này cơ hội sống sót gần như bằng không.
Mặc dù Kh-31A chỉ được trang bị đầu đạn nặng 94kg nhưng bù lại tên lửa có độ chính xác rất cao, bán kính lệch mục tiêu (CEP) của tên lửa chỉ từ 5-8 mét. Tàu chiến đối phương chỉ cần trúng một phát Kh-31A gần như đã mất khả năng chiến đấu.
Tên lửa chống tàu Kh-31A là vũ khí hiệu quả của Su-30MK2 Việt Nam tiêu diệt các tàu chiến đối phương xâm nhập vùng biển chủ quyền quốc gia.
Hiện nay, Nga đã phát triển thành công thêm 2 biến thể chống tàu của Kh-31A gồm: Kh-31AM nâng tầm bắn lên 70km; Kh-31AD nâng tầm bắn lên 160km (lắp đầu tự dẫn cải tiến ARGS-31E với tầm trinh sát lớn hơn). Có thể, trong tương lai Việt Nam sẽ quan tâm tới việc mua những biến thể mới của Kh-31A nhằm tăng sức tấn công cho Su-30MK2.
Theo vietbao
"Hỏa thần diệt chim sắt" trên vai bộ đội VN
Hiện nay, lực lượng phòng không của Việt Nam được trang bị các loại tên lửa đối không vác vai hiện đại có thể bắn hạ máy bay chiến đấu tối tân.
9K32 Strela-2
Tổ hợp tên lửa phòng không vác vai tầm thấp 9K32 Strela-2 (NATO định danh là SA-7 Grail) được sản xuất tại Liên Xô năm 1964 và đưa vào sử dụng từ năm 1968. 9K32 Strela-2 được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam vào năm 1972 và được quân đội ta định danh là A-72.
9K32 Strela-2 kết cấu đơn giản với ống phóng dài 1,4m, đường kính 70mm và trọng lượng 15kg (gồm cả đạn nặng 9,8kg).
Chiến sĩ phòng không với "hỏa thần" 9K32 Strela-2 trên vai.
Đạn tên lửa được trang bị đầu tự dẫn hồng ngoại (tức là bám theo các nguồn phát nhiệt như động cơ của trực thăng hay máy bay cánh bằng). Sau khi phóng, tên lửa nhắm vào luồng phát nhiệt là ống xả của động cơ máy bay và phát nổ.
Đầu tự dẫn của tên lửa hoạt động theo nguyên lý bám đuôi khá đơn giản và cho hiệu quả cao. Tuy nhiên, do hoạt động theo nguyên lý đơn giản này nên tên lửa dễ dàng bị vô hiệu hóa bởi các biện pháp che chắn hồng ngoại, mồi bẫy pháo sáng.
Để giải quyết hạn chế này, biến thể nâng cấp 9K32M được trang bị đầu tự dẫn hồng ngoại làm mát bằng nito lỏng giúp tên lửa vượt qua các biện pháp đối phó hồng ngoại.
Phòng không Việt Nam diễn tập bắn đạn thật với tên lửa 9K32 Strela-2.
Tên lửa có khả năng tiêu diệt các mục tiêu đường không như: trực thăng, máy bay cánh bằng bay thấp, máy bay không người lái ở cự ly tới 4,2km, độ cao từ 50-2.300m.
Tên lửa A-72 tham chiến lần đầu trong chiến dịch Quảng Trị năm 1972, sự có mặt của loại tên lửa phòng không tầm thấp này đã góp phần không nhỏ trong việc ngăn chặn khả năng chi viện hỏa lực đường không của Mỹ bằng các loại trực thăng và máy bay cánh bằng. Hiện nay, tên lửa vác vai A-72 vẫn được bộ đội phòng không sử dụng rất rộng rãi.
9K38 Igla
Tổ hợp tên lửa phòng không vác vai Igla (Liên Xô sản xuất) là một sự phát triển độc lập so với gia đình Strela. Mục tiêu của chương trình là tạo ra một tên lửa vác vai có hiệu suất chiến đấu và tầm hoạt động xa hơn so với Strela.
Tên lửa Igla được đưa tới Việt Nam năm 1987, cũng giống như A-72 quân đội ta đã "Việt hóa" với cái tên A-87. Theo một số nguồn tin thì Việt Nam sử dụng 2 biến thể của Igla gồm: 9K310 Igla-1E (cho phòng không hải quân) và 9K38 Igla (cho phòng không trên bộ).
Theo dữ liệu Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockhom (SIPRI), năm 1996 Việt Nam ký hợp đồng mua 365 tên lửa 9K330 Igla-1E từ Nga trang bị cho tàu pháo Svetlyak Project 10412, tàu tên lửa BSP-500 và Tarantul Project 1241RE.
Tên lửa vác vai Igla khai hỏa.
Biến thể 9K310 Igla-1E nặng 17,9kg (gồm đạn tên lửa nặng 10,8kg) có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở cự ly 5.000m, độ cao 3.500m.
Đạn tên lửa Igla-1E được trang bị nhiều công nghệ hiện đại như: đầu tự dẫn hồng ngoại thế hệ mới đa kênh có khả năng vượt qua các biện pháp đối phó hồng ngoại và động cơ cải tiến giúp tên lửa đạt tốc độ nhanh hơn.
Một trong những điểm cải tiến mạnh của Igla là khả năng khóa mục tiêu của đầu dò hồng ngoại, cải tiến ngòi nổ cận đích của tên lửa. Các cải tiến về đầu dò hồng ngoại cho phép tên lửa có thể tấn công vào phần thân của máy bay chứ không nhất thiết phải là ống xả của động cơ như trước.
Igla-1E có thể vượt qua được loại mồi bẫy pháo sáng ALQ-144 được trang bị trên các máy bay chiến đấu của NATO. Tên lửa có tốc độ nhanh hơn so với các thế hệ trước đó, tốc độ tên lửa nhanh gấp 2,3 lần tốc độ âm thanh (khoảng 2530km/h).
Còn biến thể cải tiến 9K38 Igla có kích thước tương tự 9K310 Igla-E nhưng có thể diệt mục tiêu ở cự ly 5.200m. Đầu tự dẫn hồng ngoại tên lửa tiếp tục cải tiến tăng khả năng đối phó với biện pháp mồi bẫy, pháo sáng gây nhiễu của đối phương.
Theo một số nguồn tin, cả hai loại tên lửa 9K32 Strela-2 và Igla đều đã được Nga chuyển giao công nghệ cho Việt Nam tự sản xuất trong nước.
Theo vietbao
"Sát thủ" phòng không tầm thấp của Việt Nam 9K35 Strela-10 là hệ thống tên lửa phòng không tốt nhất trong lưới lửa tầm thấp bảo vệ bầu trời Việt Nam. Trong 3 lớp phòng không (cao, trung, thấp) bảo vệ tổ quốc Việt Nam thì lưới tầm thấp tập trung nhiều hỏa lực nhất với súng máy phòng không (12,7mm và 14,5mm), pháo phòng không (23mm, 37mm, 57mm) cùng tên lửa...