Thương lắm miền Trung
Người Việt Nam hễ bật môi là gọi miền Trung bằng cụm từ thân thương “khúc ruột miền Trung”, bởi miền Trung nhỏ bé, nằm giữa gánh hai đầu đất nước.
Khắp dải miền Trung này, mùa hè khô nóng hanh hao, mấy chú rắn mối da bóng loáng thi nhau trườn trên bãi cát. Mùa đông mưa dầm dề, đã vậy cứ hết bão này lại đến lũ kia.
Thiên tai dồn dập đổ xuống miền Trung, khiến người quê chưa dọn xong cái mái tôn rách nát của cơn bão trước đã phải run lẩy bẩy trước gió của cơn bão này.
Tháng mười vừa về mà bão lũ đã kịp lướt qua tất thảy mọi nơi của khúc ruột miền Trung. Cả miền Trung lay lắt, tan hoang trước cơn nổi giận của thiên nhiên.
Đi ngang qua cánh đồng ngập nước, nghe đâu đó tiếng khóc than của những bông lúa chưa kịp trổ đòng. Cũng lúc nào đó, tôi đã nghe nhiều tiếng khóc ở nơi đây.
Có tiếng khóc nghẹn ngào đau đáu nhớ thương của một người mẹ có con là liệt sĩ. Có tiếng khóc của người con gái khi úp mặt vào nấm mồ của người cha đã hy sinh khi hai cha con chưa từng gặp mặt. Có tiếng khóc nghẹn ngào của một người lính nhớ về đồng đội khi về thăm lại Thành Cổ…
Và giờ là tiếng khóc hờn tủi của bao người quê trong mùa bão lũ. Khi ngôi nhà bị bay hết mái, những bức vách lỗ chỗ nằm chơ hơ giữa đất trời. Tiếng gió rít lên từng hồi bóc tách và cuốn đi mọi thứ, từ cái bảng hiệu của chị thợ may trong xóm, từ chiếc xe đạp em dựng vội ở góc nhà đến những đôi dép ngoài cửa và cái chậu rửa rau. Cây cối bật gốc, chiếc rễ cắm sâu trong đất qua bao năm tháng nay cứ từ từ rẽ đất rồi kiệt sức nên đứt hẳn, chẳng thể bấu víu vào lòng đất mẹ. Những rừng cao su được chăm bón bằng mồ hôi và nước mắt nay thi nhau ngã rạp, niềm hy vọng đổi đời cũng vụt tắt đi từ giây phút ấy.
Video đang HOT
Thóc gạo mọc mầm trong lũ, gà vịt trôi dập dềnh theo đám lục bình ngoài kia. Những ngôi nhà chỉ còn là một dấu chấm nhỏ xíu giữa biển nước mênh mông. Con đường quốc lộ ngoảnh trước ngó sau chẳng nhìn ra thân mình. Làng mạc, giếng nước, cổng làng, đình miếu nơi thờ tự, nơi của người đã khuất cũng chìm trong dòng nước lũ chảy xiết.
Ngồi nhìn lũ mà nghe ngoại rùng mình kể chuyện lũ lớn năm tám ba, hồi ấy mợ mới sinh anh được hai ngày, nước vào ngập cả giường, kê bàn kê tủ chừng nào nước lên chừng ấy. Sau cùng, thắp hương vái tổ tiên, đưa bộ lư đồng xuống để mợ bồng anh lên bàn thờ ngồi vì nơi ấy là cao nhất. May thay, ngang chừng ấy thì nước ra.
Hôm rồi, trò chuyện với chú, chú chuyển nhà lên phố đã lâu mà cứ nhớ quay quắt cái nhà cũ ven sông Thạch Hãn. Nhớ gì không nhớ, cứ nhớ lũ về cả làng chìm trong nước. Lũ qua, trên tường in hằn mãi vệt nước lũ ngâm bấy nhiêu ngày, nhà nào sơn tường lại thì vết ấy mới mất đi, còn không, nó còn mãi như một chứng tích qua từng ấy mùa bão lũ, cứ như cái vạch mà người ta hay đo chiều cao của con cái khi lớn. Bây giờ, nhà ở phố bê tông chắc chắn, vậy mà mỗi khi mưa gió, cứ thất thần nhớ tiếng rít từng hồi của mái tôn năm nào.
Lũ qua, mấy o, mấy mệ vơ vội chiếc nón cời tơi tả để che mưa, còng lưng nhặt những hạt thóc còn sót lại. Người không ăn được nữa thì gà vịt ăn, nghĩ rồi quệt nước mắt, cái chuồng gà bây giờ còn con nào nữa đâu.
Đàn ông trèo lên mái nhà mướt mồ hôi lợp lại cái tấm tôn vừa bị bay mất. Có đôi vợ chồng đưa tay lần từng vết gãy của thân cao su mà úp mặt vào đó. Đám trẻ nít ngồi hong sách vở và nghĩ tới ngôi trường bây giờ, hẳn bàn ghế bảng đen cũng đậm mùi bùn đất.
Những người ở xa, nghe tin quê mùa bão lũ lại gọi điện ra thăm hỏi. Ba mẹ lúc nào cũng thở dài rồi mạnh miệng trả lời “cũng không răng hết mô, con cứ lo học hành…”
Năm nào cũng thế, những mùa bão lũ này qua thì mùa sau lại đến. Song, chẳng ai nỡ bỏ đất này mà đi. Có chăng, những người trẻ, từng ôm đống sách vở đọng mùi bùn để đến trường đã quá hãi hùng lũ quê hương nên đi xa lập nghiệp cũng là tránh những mùa bão lũ.
Thương miền Trung, người Nam người Bắc chung tay góp sức, vực miền quê này dậy. Miền Trung lại kiên cường, còng lưng tần tảo lao động. Để cánh đồng ngập nước ấy rồi sẽ xanh rờn màu lúa non, cái ao cá lại đầy, gà vịt thong thả nhặt thức ăn trong vườn. Con đường quê lại ngút ngàn những dải hoa xuyến chi dài bất tận.
Diệu Ái
Theo Dantri
Chiêu moi tiền của "thánh cô"
Nhiều năm qua, người dân xã Xuân Tây, huyện Cẩm Mỹ (Đồng Nai) rất bức xúc trước việc bà Nguyễn Thị Mỹ Hằng và ông Huỳnh Khánh Nhiên xây điện, tổ chức lên đồng, cúng bái và hoạt động mê tín dị đoan để thu lợi bất chính.
Xây đền, tổ chức lễ
Theo điều tra của chúng tôi, năm 2006, bà Hằng tự ý xây dựng một ngôi điện uy nghi trong khuôn viên nhà mình ở ấp 3, xã Xuân Tây, rồi đưa về các loại Phật, thánh để tổ chức cúng bái, hầu đồng. Bà Hằng còn đặt ra những ngày lễ lớn tại ngôi điện của mình để huy động nhiều người tham gia. Theo đó, hằng năm bà tổ chức một loạt các lễ như: Lễ Tam, Tứ Phủ (20/3), Vía Ngài Quan thánh (23/10), Tất Niên cuối năm (26/12) và ngày "lễ trọng" mà bà gọi là Đại hội điện (9/7). Một đệ tử của bà Hằng cho biết trước ngày lễ một tháng, bà gọi điện thoại cho các đệ tử khắp nơi để báo lịch lễ và quyên góp tiền phục vụ cúng bái. Các đệ tử răm rắp tuân theo mệnh lệnh vì sợ "Quan thánh quở". Ai có tiền thì gửi bưu điện, chuyển thẻ, còn nếu chưa thì bà Hằng cho nợ lại.
Người dân xã Xuân Tây cho biết, việc vợ chồng bà Hằng và ông Nhiên buôn thần bán thánh diễn ra lâu nay tại địa phương khiến nhiều người tan cửa nát nhà khi bỏ bê công việc làm ăn hoặc đồng áng bám theo mê tín, dị đoan.
Bà Hằng tự xưng "thánh" vẽ bùa giải căn và ban phép cho những người cả tin. (Ảnh trích từ video clip do Hiền Khang quay)
Núp bóng thần thánh để lừa
Quá trình thâm nhập, chúng tôi thu được những hình ảnh bà Hằng cùng chồng và các đệ tử mặc quần áo kiểu vua chúa, thêu rồng vẽ rắn khắp người. Sau khi thắp hương, toàn thân bà Hằng lắc lư co giật, miệng móm mém liên hồi. Theo một đệ tử, đó là dấu hiệu "bề trên" đã nhập vào "thánh cô" .
Sau đó, bà Hằng nói: "Chuẩn bị ấn lệnh, ta xoay chuyển thời vận" rồi gọi tên từng người đang quỳ phía sau lên để phán. Theo đó, cứ thấy ai có vẻ giàu sang thì bà phán có "chân tướng đế vương", cần phải ra căn, trình căn, giải căn. Giá của "căn" cũng tùy theo "mạng" của từng người và dao động từ 7 đến 10 triệu đồng. Như "thánh cô " phán thì ai không ra căn phải chịu hậu quả khôn lường.
Sau khi phán xong, bà Hằng bước vào tiết mục quan trọng nhất là làm bùa phép. Hình ảnh quay được cho thấy bà mắt nhắm, miệng nói liên hồi, tay cầm bút lông viết lên giấy những nét chằng chịt. Viết xong bà bảo: "Đó là bùa giải căn bề trên ban đốt đi để uống mới hiệu nghiệm".
Khi các "bề tôi" uống thuốc thánh, ông Nhiên ngồi bên đưa rượu và châm thuốc cho bà. Lúc này, "thánh cô" vừa huýt sáo, miệng ngậm rượu phun lên đầu những người đang quỳ bên cạnh rồi tay cầm nhang, rít thuốc thổi lên đầu họ. Mỗi người, bà Hằng đều làm cùng một động tác như nhau lấy giấy lau lên mặt mình "ban phép " cho họ. Những "bề tôi" trân trọng nhận lấy hít lấy hít để rồi xoa lên đầu, cổ mình.
Kết thúc buổi lễ, toàn thân "thánh cô" lại giật giật mấy cái sau đó bà Hằng cùng tất cả mọi người quỳ lạy để chào "thánh" về trời.
(Còn nữa)
Theo Duy Đông - Hiền Khang (Pháp luật TP.HCM)
Theo Dantri
Phát hiện dấu tích nghi là thành cổ thời Lê Đoàn khảo sát khai quật khảo cổ của Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã phát hiện những dấu tích đầu tiên, nghi là di tích thành cổ Sam Mứn tại xã Sam Mứn (Điện Biên). Từ ngày 25/12/2012 đến 16/3/2013, đoàn khảo sát khai quật khảo cổ của Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao...