Thuốc điều trị khò khè do virut ở trẻ
Khi không có các bất thường cấu trúc đường thở, nhiễm virut đường hô hấp cấp tính là nguyên nhân của phần lớn các trường hợp khò khè ở trẻ em, trong đó, hợp bào hô hấp là loại virut thường gặp nhất. Do thiếu những phương pháp điều trị đặc hiệu virut nên việc điều trị khò khè do virut ở trẻ em là không có sự khác biệt giữa các loại virut. Nói chung, các phương pháp điều trị này phần lớn được lựa chọn dựa trên kinh nghiệm của các thầy thuốc.
Thuốc giãn phế quản: Là nhóm thuốc được dùng rất phổ biến trong điều trị khò khè ở trẻ em, tuy nhiên, việc sử dụng chúng một cách thường quy vẫn còn nhiều tranh cãi và nhiều nghiên cứu đã không tìm ra những bằng chứng khách quan về lợi ích của chúng. Salbutamol (albuterol) là thuốc được sử dụng rộng rãi nhất cho chỉ định này, tuy nhiên, các bằng chứng y học về hiệu quả điều trị của thuốc không hằng định. Một số nghiên cứu quy mô nhỏ đã chỉ ra lợi ích của salbutamol đường khí dung trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut ở trẻ em dưới 2 tuổi với việc cải thiện triệu chứng và nồng độ ôxy trong máu. Trong khi đó, một số nghiên cứu khác lại không tìm thấy tác dụng ổn định của salbutamol trong chỉ định này.
Phần lớn các nghiên cứu đều nhận thấy sự cải thiện triệu chứng bệnh xảy ra nhanh chóng sau dùng thuốc nhưng phần lớn những sự cải thiện này đều không kéo dài quá 60 phút. Tóm lại, lợi ích của salbutamol trong điều trị viêm tiểu phế quản là không hằng định, do đó, cần theo dõi sự đáp ứng của từng cá thể và ngưng sử dụng nếu không có sự cải thiện rõ rệt. Adrenalin (epinephrine) cũng là một thuốc giãn phế quản được sử dụng khá thường xuyên trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut có tắc nghẽn đường thở. Thuốc có nhiều tác dụng phụ như gây nhịp tim nhanh, run chân tay, hạ kali máu, hạ đường máu…, do đó, không được sử dụng trong điều trị ngoại trú tại nhà.
Nhiễm virut đường hô hấp cấp tính là nguyên nhân của nhiều trường hợp khò khè ở trẻ.
Cũng giống với salbutamol, không có những bằng chứng rõ rệt chứng minh hiệu quả của adrenalin trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut. So sánh với salbutamol khí dung, một số nghiên cứu đã nhận thấy ưu điểm vượt trội của adrenalin trong việc giảm mức độ khó thở và nguy cơ nhập viện. Tóm lại, những bằng chứng y học có được cho đến nay không ủng hộ việc sử dụng thường quy salbutamol và adrenalin trong điều trị viêm tiểu phế quản ở trẻ nhỏ, thay vào đó là sự lựa chọn sử dụng cho từng người bệnh. Việc điều trị chỉ nên tiếp tục nếu nhận thấy có sự cải thiện trên lâm sàng, ngược lại, khi không có sự cải thiện cần ngưng điều trị để tránh các tác dụng phụ.
Thuốc kháng cholinergic: Các dẫn xuất kháng cholinergic như ipratropium bromide… không được tìm thấy có hiệu quả trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả của ipratropium đơn thuần hoặc phối hợp với salbutamol chỉ tìm thấy những sự cải thiện nhỏ của nồng độ ôxy máu nhưng không tìm thấy lợi ích rõ rệt và ổn định đối với diễn biến và tiên lượng của bệnh.
Kháng sinh: Mặc dù kháng sinh không có tác dụng đối với virut nhưng nhóm thuốc này vẫn được sử dụng khá phổ biến trong điều trị viêm tiểu phế quản ở trẻ em. Khảo sát ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, 34 – 99% số trẻ bị viêm tiểu phế quản do virut vẫn được dùng kháng sinh. Lý do sử dụng kháng sinh thường do trẻ có sốt và rất khó để phân biệt nguyên nhân sốt là do nhiễm vi khuẩn hay nhiễm virut. Nguy cơ bội nhiễm vi khuẩn ở những trẻ bị viêm tiểu phế quản do virut dao động trong khoảng 0,2-26%. Nói chung, kháng sinh được khuyến cáo dùng trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut chỉ khi có bằng chứng rõ ràng của việc bội nhiễm vi khuẩn. Trong trường hợp đó, việc sử dụng kháng sinh không có khác biệt so với những trường hợp không có viêm tiểu phế quản.
Thuốc kháng leukotriene: Các bằng chứng thực nghiệm ở động vật cho thấy các leukotriene được giải phóng khi có tình trạng nhiễm virut cũng như phản ứng viêm và tình trạng tăng tính phản ứng đường thở. Điều này gợi ý các thuốc kháng leukotriene có thể có một vai trò trong điều trị viêm tiểu phế quản cấp do virut. Nhiều nghiên cứu được tiến hành trong những năm qua đã phần nào khẳng định hiệu quả của tiếp cận điều trị này trong thực tế.
Video đang HOT
Theo những nghiên cứu này, montelukast (một dẫn xuất kháng leukotriene), giúp tăng số ngày không triệu chứng và giảm triệu chứng ho về ban ngày so với giả dược khi được dùng điều trị kéo dài trong và sau đợt cấp của viêm tiểu phế quản do virut. Nói chung, hiệu quả của montelukast ở trẻ nhỏ rõ rệt hơn so với các trẻ lớn, điều này được cho là do sự khác biệt trong sản xuất leukotriene liên quan đến tuổi. Hiện nay, vai trò dự phòng viêm tiểu phế quản khi được dùng trước mùa virut của các thuốc kháng leukotriene là vấn đề vẫn đang cần được nghiên cứu tìm lời giải.
Theo Sức khỏe đời sống
Nhận dạng kẻ thù gây dị tật thai nhi
Các chất này rất đa dạng, nhưng phần lớn là các chất kích thích, được giới chuyên môn gọi bằng cái tên teratogens như hóa chất, các chất gây ô nhiễm có trong môi trường mà sản phụ tiếp xúc hay sử dụng trong thời kỳ mang thai.
1. Rượu
Rượu được xếp đầu danh sách các hợp chất teratogens bởi nó có tác động rất lớn đối với bào thai. Trước tiên, làm cho trẻ chậm phát triển tâm thần, gây dị tật bẩm sinh, đầu nhỏ, mặt nhỏ và nhiều dị tật khác trên khuôn mặt và ở tứ chi, trẻ sinh thiếu cân, thiếu tháng và rất nhiều tác động tiêu cực đến quá trình phát triển của trẻ. Vì mối nguy hiểm này mà khi mang thai người mẹ hãy tránh xa rượu.
2. Nicotin
Nicotin là hóa chất dễ gây nghiện có nhiều trong thuốc lá. Khi người mẹ hút thuốc, nicotin ngấm vào máu, qua nhau thai đi vào bào thai và nếu thời gian phơi nhiễm nicotin càng lâu thì em bé cũng mắc chứng nghiện, tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như suy hô hấp do thiếu oxy, bào thai phát triển không bình thường, chậm lớn, phát sinh tình trạng đẻ non, nhẹ cân khi sinh và nhiều hậu quả lâu dài khác khi trẻ trưởng thành.
Khi mang thai không được sử dụng thuốc lá và rượu. Ảnh minh họa
3. Cocaine và amphetamin
Đây là nhóm thuốc kích thích thần kinh, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các tế bào thần kinh. Nếu lạm dụng có thể tạo các khối u nang trong não của trẻ, tăng khuyết tật khi sinh, thai chết lưu và trẻ sinh ra dễ mắc chứng nghiện, phát triển hành vi khác thường, trí não trẻ phát triển kém, ngỗ ngược và nhiều ảnh hưởng khác đến tâm tính khi trưởng thành.
4. Các loại virút
Một số loại virút dưới đây được xem là rất nguy hiểm cho phụ nữ giai đoạn mang thai như virút gây bệnh sởi Đức hay còn gọi là rubella, virút cytomegalovirus (CMV), virút gây bệnh herpes và varicella zoster virút (VZV). Đây là 4 loại virút phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh có rủi ro lây nhiễm cao thậm chí có tới 90% số trẻ sinh nhiễm vi rút CMV mà không hề có bất kỳ dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài. Thủ phạm gây nhiều mối nguy như khuyết tật tim bẩm sinh, điếc, mù ở trẻ nếu nhiễm virút rubella, gây kém phát triển não, vôi hóa trong não, mù điếc nếu nhiễm CMV và virút herpes hoặc mắc bệnh viêm phổi nếu nhiễm virút VZV. Phụ nữ trước khi mang thai cần tư vấn bác sĩ phương pháp phòng ngừa hoặc tiêm phòng vắc-xin nếu được phép.
5. Khuẩn gây bệnh giang mai
Khuẩn giang mai thường lây lan qua đường tình dục, đây là loại khuẩn cực nhỏ hình xoắn ốc, có tên là Treponemes. Nếu không được điều trị bệnh giang mai có thể phát triển qua 3 giai đoạn lâm sàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ sản phụ lẫn trẻ sơ sinh. Đối với người mẹ nó sẽ đi vào dòng máu sau đó truyền sang cho trẻ, gây sảy thai, thai chết lưu hoặc chết trong vòng vài ngày sau sinh. Nếu qua khỏi sẽ mắc phải nhiều bệnh nan y trong đó có bệnh viêm màng não, viêm da và một số bệnh bẩm sinh. Bởi vậy khi mang thai người mẹ phải điều trị dứt điểm căn bệnh này hoặc không nên mang thai khi đang mắc bệnh.
6. Toxoplasma
Toxoplasma là động vật nguyên sinh đơn bào, nó có thể gây nhiễm trùng các loại động vật. Mèo được xem là động vật trung gian gây lan truyền Toxoplasma mạnh nhất ngoài ra có thể bị mắc bệnh do ăn uống không hợp vệ sinh, không đun sôi, nấu chín, có thói quen ăn thịt sống... Nếu trong giai đoạn mang thai bị nhiễm Toxoplasma có thể gây sảy thai, thai chết lưu, trẻ kém phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, nếu nặng có thể gây liệt não mù bẩm sinh.
7. Các loại thuốc nhóm X
Cũng theo FDA, phụ nữ mang thai không nên dùng các loại thuốc nhóm X bởi rủi ro gây quái thai rất cao. Trong nhóm thuốc này có Thalilomide dùng để chữa an thần và chống nôn nên được người ta lạm dụng, đặc biệt là chữa bệnh "ốm nghén". Hiện tượng thường thấy là trẻ sinh ra có tứ chi phát triển không bình thường. khuyết tật nội tạng và phát triển méo mó khuôn mặt. Năm 1960 người ta đã rút thuốc này khỏi thị trường, thậm chí năm 2005 ở Anh người ta còn dựng tượng đứa trẻ bị dị tật do người mẹ dùng Thalilomide để cảnh báo mọi người hãy tránh xa loại thuốc này. Ngoài Thalilomide trong nhóm thuốc nói trên còn có thuốc tránh thai, thuốc chữa bệnh sinh sản, thuốc điều trị bệnh trứng cá, thuốc chống ung thư và chữa bệnh động kinh.
8. Các loại loại thuốc nhóm D
Các loại thuốc nhóm D (Category D.Dry) đã được Cục Quản lý và Thực phẩm - Dược phẩm Mỹ (FDA) cấm không dùng cho phụ nữ khi mang thai vì nó có thể gây hiện tượng quái thai.
9. Các loại hóa chất
Trong nhóm hóa chất, thủy ngân hữu cơ (mythyl mercury) được xem là nguy hiểm nhất đối với quá trình phát triển của bào thai, bởi nó gây ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh, chậm phát triển tâm thần. Nặng có thể gây mù mắt, hợp chất này có trong cá, trong nguồn nước và khi người mẹ dùng, các chất độc này sẽ truyền sang cho đứa trẻ. Tiếp đến là nhiễm độc chì, sử dụng liều iốt kali quá lớn (có trong xirô chống ho, thuốc uống để chẩn đoán X-quang). Nhiễm độc PCB (Polychlorinated biphenyls) có trong các sản phẩm giặt, xà phòng, bảo quản thực phẩm... Để hạn chế khuyết tật khi sinh thì nên sống trong môi trường trong lành, không nên ăn cá nhiễm thủy ngân, nguồn nước ô nhiễm cũng như hoa quả nhiễm độc hoặc có chứa hàm lượng hóa chất cao.
10. Bức xạ ion hóa
Bức xạ ion hóa (Ionizing radiation) là mối nguy hiểm rất lớn đến sức khỏe sinh sản. Theo đó người mẹ chỉ cần tiếp xúc trong thời gian ngắn có thể dẫn đến tình trạng phát triển trí não bất thường, chậm phát triển tâm thần, gây bệnh bạch cầu ở trẻ sơ sinh. Nên thận trọng, kỹ thuật chẩn đoán bằng X-ray có mức độ bức xạ nhỏ, nhưng quét vi tính (CT) thì chỉ một lần quét có mức bức xạ cao gầp 10 lần khám X - quang, vì vậy khi mang thai nên hạn chế các thủ thuật này.
Theo SK&ĐS
Phòng ngừa bệnh hô hấp ở người cao tuổi trong mùa lạnh Người cao tuổi (NCT), mọi chức năng của cơ thể đều bị suy giảm trong đó sức đề kháng cũng giảm đi thì mọi loại bệnh tật có thể tấn công dễ dàng hơn, nhất là các bệnh gây ra bởi vi sinh vật (virut, vi khuẩn, vi nấm). Sự yếu kém trong việc tự bảo vệ của NCT càng rõ nét mỗi...