Thủ tục chia thừa kế cho con ngoài giá thú
Luật Hôn nhân và gia đình cho phép con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết. Do vậy, cần làm thủ tục nhận cha trước khi làm thủ tục để hưởng thừa kế.
Ảnh minh họa
Trong câu hỏi bạn không nêu rõ Giấy khai sinh của con bạn có ghi về phần cha của cháu bé hay không nên có thể xảy ra một trong hai trường hợp như sau:
1. Giấy khai sinh của cháu bé ghi rõ phần cha
Trong trường hợp này, mặc dù hai bạn không phải là vợ chồng nhưng cha cháu bé vẫn được pháp luật thừa nhận. Theo đó, khi cha chết thì cháu bé sẽ được hưởng thừa kế tài sản theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật.
Trường hợp, cha cháu bé lập di chúc (di chúc hợp pháp) định đoạt cho cháu bé một phần hoặc toàn bộ di sản: Cháu bé sẽ được hưởng di sản của cha để lại theo nội dung di chúc.
Video đang HOT
Nếu cha cháu bé chết mà không để lại di chúc hoặc tuy có lập di chúc nhưng di chúc có một phần/toàn bộ không hợp pháp: Di sản sẽ được phân chia theo pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 676 Bộ Luật Dân sự 2005, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Khi đó, cháu bé sẽ được hưởng một phần di sản của cha để lại (những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần thừa kế bằng nhau).
2. Giấy khai sinh của cháu bé bỏ trống phần cha
Trong trường hợp này cha cháu bé chưa được pháp luật thừa nhận là cha đẻ, mặc dù cháu bé được phía bên nội thừa nhận. Do vậy, để cháu bé được hưởng di sản thừa kế thì cha cháu bé lập di chúc (di chúc hợp pháp) định đoạt cho cháu bé một phần hoặc toàn bộ di sản. Khi đó, cháu sẽ được hưởng di sản của cha để lại theo nội dung di chúc.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật Hôn nhân và Gia đình, “con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết”. Do vậy, bạn hoặc cháu bé (trường hợp cháu bé đã đủ 18 tuổi) cần phải tiến hành các thủ tục nhận cha trước khi làm thủ tục để hưởng thừa kế.
Theo quy định tại Điều 34 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và khoản 9 Điều 1 Nghị định số 06/2012/NĐ-CP, để làm thủ tục nhận cha cho con, bạn/cháu bé phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Kèm theo Tờ khai phải xuất trình: giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của cháu bé; các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha con (nếu có).
Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận, cha là đúng sự thật và không có tranh chấp, thì ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nhận cha, mẹ, con. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Khi đăng ký việc nhận cha, các bên phải có mặt, trừ trường hợp người được nhận là cha đã chết. Cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký việc nhận cha, con và Quyết định công nhận việc nhận cha, con. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc nhận cha, con. Bản sao Quyết định được cấp theo yêu cầu của các bên.
Trường hợp có tranh chấp giữa những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc nhận cha – con (gia đình người cha không đồng ý) thì bạn/cháu bé (đủ 18 tuổi) phải làm đơn khởi kiện yêu cầu tòa án xác định cha cho con.
Trường hợp nếu không có chứng cứ để xác định quan hệ cha con thì phải tiến hành giám định AND (cha cháu bé chết thì có thể giám định qua họ hàng như: ông – cháu, bà – cháu, anh – em, chị – em,…). Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là TAND cấp huyện nơi người cha cư trú trước lúc chết (theo khoản 4 Điều 27, điểm a khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004).
Sau khi hoàn tất thủ tục nhận cha, cháu bé sẽ được hưởng di sản thừa kế của cha cháu để lại bằng với các đồng thừa kế khác (thừa kế theo pháp luật, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần thừa kế bằng nhau).
Theo VNE
Không được đòi chia thừa kế khi bố mẹ còn sống
Bộ luật Dân sự chỉ cho phép mở thừa kế vào thời điểm người có tài sản chết nên anh em bạn không có quyền hưởng di sản cũng như không có quyền can thiệp vào quyền định đoạt tài sản của bố mẹ.
ảnh minh họa
Mảnh đất có diện tích 500m2 và nhà ở là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của bố mẹ bạn. Do vậy, họ có đầy đủ quyền năng của chủ sở hữu, trong đó có quyền định đoạt tài sản. Điều 195 Bộ luật dân sự quy định: "Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó". Theo đó, việc cho ai sử dụng mảnh đất và nhà ở là quyền của bố và mẹ bạn.
Bố và mẹ bạn là đồng sở hữu quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà nên có quyền ngang nhau trong việc định đoạt. Vì vậy, việc bố bạn cho ai mảnh đất và nhà phải được sự đồng ý của mẹ bạn, trừ khi bố bạn chỉ quyết định việc tặng cho phần tài sản của mình (1/2 khối tài sản).
Theo quy định của pháp luật thừa kế hiện hành, trường hợp bố mẹ bạn mất không để lại di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp,... thì di sản sẽ được phân chia theo pháp luật. Khi đó 4 anh em bạn sẽ được hưởng quyền thừa kế ngang nhau.
Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự cũng quy định"cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình" (Điều 631) nên bố và mẹ bạn có thể lập di chúc để lại quyền sử dụng mảnh đất và nhà ở cho riêng một người.
Bạn cũng cần chú ý là di chúc chung của bố mẹ bạn phải được lập hợp pháp và chỉ có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm bố, mẹ bạn cùng chết. Nếu bố và mẹ bạn lập hai di chúc riêng rẽ, mỗi di chúc chỉ định đoạt 1/2 khối tài sản thuộc quyền sở hữu của người đó thì mỗi di chúc chỉ có hiệu lực từ thời điểm người để lại di chúc đó chết. Phần tài sản được định đoạt trong di chúc đó sẽ được chia cho người được hưởng di sản theo di chúc, phần còn lại vẫn do bố (hoặc mẹ) - người đang còn sống quản lý.
Theo quy định tại Điều 633, "thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết" nên các anh em bạn chỉ được hưởng thừa kế di sản do bố hoặc mẹ bạn để lại sau khi bố và mẹ bạn mất đi. Hiện tại, bố mẹ bạn còn sống nên các anh em bạn không có quyền hưởng di sản cũng như không có quyền can thiệp vào quyền định đoạt tài sản của bố và mẹ bạn.
Theo TNO
Ngồi xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm bị phạt 200.000 đồng Người điều khiển, người ngồi trên xe may điên, xe đap điên bị phạt tiền từ 100.000 đến 200.000 đồng nếu không đội mũ bảo hiểm hoặc đội nhưng không cài quai đúng quy cách. Theo điểm i khoản 3 Điều 6, điểm d khoản 4 Điều 8 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013, người điều khiển, người ngồi trên xe môtô, xe...