Thông tin mới nhất về lãi suất ngân hàng Sacombank
Mức lãi suất cao nhất tại Sacombank là 8%/năm áp dụng tại kì hạn gửi 13 tháng và số tiền từ 100 tỉ đồng trở lên.
Thông tin từ ngân hàng Sacombank, từ đầu tháng 9 lãi suất tiết kiệm các kì hạn từ 1 tháng trở lên của nhà băng này dao động từ 5,4%/năm đến 8%/năm, lĩnh lãi cuối kì. Mức lãi suất cao nhất tại ngân hàng là 8%/năm áp dụng với tiền gửi kì hạn 13 tháng và số tiền gửi từ 100 tỉ đồng trở lên. Với số tiền nhỏ hơn, lãi suất cao nhất là 7,6%/năm áp dụng với tiền gửi bậc thang kì hạn 36 tháng và số tiền gửi từ 5 tỉ đồng trở lên.
Với sản phẩm tiết kiệm thường lĩnh lãi cuối kì, lãi suất kì hạn 1 tháng là 5%/năm, 3 – 5 tháng là 5,5%/năm; 7 – 8 tháng là 6,5%/năm; 9 – 11 tháng là 6,7%/năm. Các khoản tiền gửi không kì hạn, tiền gửi thanh toán có lãi suất là 0,3%/năm.
Sacombank có mức gửi bậc thang tại các kì hạn 2 tháng, 6 tháng, 12 tháng và từ 15 tháng trở lên gồm: dưới 200 triệu đồng, từ 200 đến dưới 500 triệu đồng, từ 500 triệu – dưới 1 tỉ đồng, từ 1 tỉ đồng – dưới 5 tỉ đồng và từ 5 tỉ đồng trở lên.
Mức lãi suất cao nhất tại Sacombank là 8%/năm áp dụng tại kì hạn gửi 13 tháng và số tiền từ 100 tỉ đồng trở lên.
Với Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank) trong tháng 9, lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kì hạn tại nhà băng này dao động từ 0,85% đến 7,43%/năm tùy theo sản phẩm gửi và kì hạn gửi. Đối với sản phẩm tiết kiệm lãi suất bậc thang, mức lãi suất áp dụng sẽ thay đổi theo số tiền gửi.
Cụ thể, các mức tiền gửi được đưa ra là từ 100 đến dưới 500 triệu đồng; từ 500 triệu đồng đến dưới 1 tỉ đồng; từ 1tỉ đồng đến dưới 5 tỉ đồng; từ 5 tỉ đồng đến dưới 10 tỉ đồng và từ 10 tỉ đồng trở lên. Mức chênh lệch giữa các mức gửi từ 0,05 – 0,1 điểm %.
Trong đó, mức lãi suất cao nhất đang được SeABank áp dụng là 7,43%/năm dành cho kì hạn 36 tháng với số tiền gửi từ 10 tỉ đồng trở lên. Bên cạnh tiết kiệm lãi suất bậc thang, SeABank cũng triển khai với sản phẩm tiết kiệm lĩnh lãi cuối kì với lãi suất dao động từ 0,85% đến 6,95%.
Video đang HOT
Cụ thể, tiền gửi có kì hạn ngắn từ 1 tuần, 2 tuần và 3 tuần có lãi suất lần lượt là 0,85%, 0,9% và 0,95%/năm. Tiền gửi tại các kì hạn từ 1 tháng trở lên đang được áp dụng mức lãi suất cao hơn rõ rệt. Theo đó, lãi suất tiền gửi kì hạn 1 tháng là 5,1%/năm; 2 tháng là 5,2%/năm; 3 tháng là 5,25%/năm; 4 tháng là 5,28%; 5 tháng là 5,3%/năm; 6 tháng là 5,8%/năm.
Các kì hạn 7 tháng, 8 tháng và 9 tháng được huy động với mức lãi suất lần lượt là 5,9%/năm, 6%/năm và 6,2%/năm. Tiền gửi kì hạn 10 tháng và 11 tháng đang được áp dụng mức lãi suất 6,35%/năm và 6,55%/năm
Tiền gửi kì hạn 12 tháng và 15 tháng đang cùng được áp dụng lãi suất 6,8%/năm; kì hạn 18 tháng là 6,85%/năm và 24 tháng là 6,9%/năm. Kì hạn gửi 36 tháng đang được SeABank áp dụng mức lãi suất cao nhất dành cho sản phẩm tiết kiệm nhận lãi cuối kì ở mức 6,95%/năm. Đối với tiền gửi không kì hạn, lãi suất huy động là 0,3%/năm.
Ngoài hai hình thức tiết kiệm nêu trên, ngân hàng cũng triển khai một số sản phẩm khác như tiết kiệm trả lãi hàng tháng, tiết kiệm gửi góp và tiết kiệm thông minh với nhiều tính năng và lãi suất hấp dẫn.
Hoàng Lê
Theo VietQ
Lãi suất trái phiếu càng cao, rủi ro càng lớn
Thị trường chứng khoán (TTCK) đang tồn tại nghịch lý là các doanh nghiệp (DN) niêm yết, đặc biệt là DN bất động sản (BĐS) phát hành trái phiếu (TP) thay vì huy động vốn giá rẻ thông qua việc phát hành cổ phiếu (CP).
Cuộc đua phát hành TP khiến cho mặt bằng lãi suất của loại hình này tăng cao, thậm chí còn cao hơn nếu so với lãi suất ngân hàng (NH). Ông PHAN DŨNG KHÁNH (ảnh), Giám đốc Tư vấn đầu tư CTCK Maybank KimEng (MBKE), đã có những giải đáp với ĐTTC về hiện tượng đầy rủi ro này.
Đúng là gần đây nhiều DN niêm yết công bố kế hoạch phát hành TP, trong đó phần lớn là các DN BĐS. Theo thống kê, 6 tháng đầu năm thu hút gần 117.000 tỷ đồng TP được phát hành thành công (tăng 74,3% so với cùng kỳ năm 2018).
Hầu hết các DN phát hành TP đều chưa được xếp hạng tín nhiệm, trong khi bản cáo bạch phát hành TP lại quá phức tạp. Do đó, rủi ro với NĐT khi các DN phát hành bị phá sản, trong khi TP không có tài sản đảm bảo, không có tổ chức bảo lãnh.
Lãi suất bình quân trong nửa đầu năm nay vào khoảng 9,5-11%/năm, trong đó gần 90% khối lượng TP phát hành có lãi suất dưới 11%/năm, một số đợt phát hành với lãi suất 13-14%/năm, thậm chí DN BĐS phát hành TP với lãi suất lên đến 14,5%/năm. Nguyên nhân chính do NHNN yêu cầu hạn chế cho vay đối với những lĩnh vực có tính rủi ro cao như BĐS, bởi hệ thống NH có nợ xấu gia tăng cao chủ yếu cũng từ BĐS, khiến cho các DN BĐS khó tiếp cận vốn vay NH hoặc không đủ các điều kiện để được vay.
PHÓNG VIÊN: - Thưa ông, vì sao nhiều DN bằng mọi giá phải huy động vốn từ TP thay vì huy động thông qua việc phát hành thêm CP trên TTCK?
Ông PHAN DŨNG KHÁNH: - Hiện mặt bằng lãi suất của các TP đang phát hành rất cao, có nhiều TP cao gấp đôi tiền gửi NH, thậm chí gấp rưỡi nếu vay trực tiếp tại NH. Đó là chưa tính các loại phí khi phát hành TP. Cũng dễ hiểu, khi nhiều DN cùng phát hành, để tăng tính hấp dẫn buộc DN đẩy lãi suất lên cao để thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư (NĐT). Như vậy có thể thấy rằng, các DN BĐS đang khó khăn về vốn mới phải vay thông qua kênh TP thay vì vay NH, thậm chí huy động qua phát hành CP với lãi suất thấp hơn nhiều.
Đối TTCK, sau khi lập đỉnh hồi tháng 4-2018 đã liên tục đi xuống, cả về điểm số lẫn thanh khoản, khiến cho việc phát hành thêm CP với giá cao như kỳ vọng của DN lại không hợp lý. Đó là chưa kể việc "in thêm giấy" lúc thị trường xuống tạo ấn tượng xấu cho NĐT trong bối cảnh họ cũng đang chật vật do thua lỗ khi thị trường giảm. Ngoài lý do chính này, nhiều DN không đủ tiêu chuẩn để phát hành CP, hoặc họ cân nhắc việc phát hành sẽ khiến cho CP bị pha loãng, làm cho những chỉ tiêu tài chính của DN bị ảnh hưởng xấu đi sau các đợt phát hành CP.
- Theo ông, việc DN BĐS phát hành TP có tạo nên áp lực cạnh tranh giữa NH và DN, và liệu rằng sự cạnh tranh này có tạo nên rủi ro cho thị trường?
- Đúng là có sự cạnh tranh của NH và DN về việc này. Điều này gây khó cho cả 2, vì NH cũng không thể vì điều đó mà "nới lỏng" hơn cho các DN BĐS vay khi tình hình nợ xấu có thể xấu hơn. Trong khi đó, rủi ro mà DN gặp phải cũng không hề nhỏ. Chẳng hạn, nếu các dự án BĐS thực hiện không đúng tiến độ, phải đền bù hoặc không thực hiện được hay không bán được, sẽ khiến DN khó khăn về dòng tiền. Về lâu dài, hiện tượng này gây tác động không tốt đến khả năng chi trả, hoặc nếu có tài sản đảm bảo chi trả thành công thì nếu phát hành thêm những lần tiếp theo sẽ khó khăn hơn, thậm chí không thể huy động thêm được từ kênh TP.
Đặc biệt, DN phải trả lãi rất cao trong khi BĐS đang nhiều dấu hiệu trầm lắng, nên giả sử có tiêu thụ được hết và thực hiện đúng kế hoạch thì với lãi suất cao như hiện nay cũng góp phần "ăn mòn" doanh thu và lợi nhuận của DN. Nếu DN BĐS muốn giữ được điều này có thể phải cắt giảm nhiều chi phí, ứng dụng nhiều công nghệ để duy trì. Điều này đòi hỏi phải thay đổi được tư duy lãnh đạo cũng như có tiềm lực để thực hiện vốn không dễ dàng.
Một rủi ro khác nữa là cạnh tranh với kênh đầu tư vàng. Thời gian gần đây, kênh đầu tư này đang thu hút được sự chú ý của NĐT với những dự báo vàng sẽ còn tăng giá. Điều này đồng nghĩa, DN muốn hút được các dòng tiền lớn khó mà huy động qua kênh TP với lãi suất thấp được. Và gánh nặng cho họ càng lớn.
- Theo ông, liệu có giải pháp gì để hạn chế rủi ro cho các DN BĐS muốn huy động vốn bằng TP?
- Rất khó để có thể đưa ra giải pháp tốt nhất về mọi mặt, nhưng theo tôi, các DN cần lưu tâm các vấn đề khi có kế hoạch phát hành TP như: chỉ thực hiện huy động vừa phải vốn với những dự án khả thi và có đầu ra; bán lại những dự án thiếu khả thi; tính toán lại kế hoạch, có thể loại bỏ những dự án cần chi phí lớn hoặc hoãn lại, cắt giảm các chi phí không cần thiết. Đặc biệt, DN phải chủ động giảm lãi suất TP và có thể thêm các ưu đãi là khuyến mại khác cho người mua TP để thu hút. Thí dụ như như cho phép những người mua TP có thể tiếp cận các dự án dễ dàng, như ưu đãi chọn vị trí, khuyến mại phù hợp...
- Theo ông, về phía cơ quan quản lý có nên can thiệp vào để hạn chế rủi ro làm ảnh hưởng đến thị trường vốn nói chung?
- Thực tế, cơ quan quản lý cũng gặp khó trong trường hợp này, vì nếu thế phải khuyến khích cho DN BĐS vay tiền, nhưng như vậy rủi ro sẽ lớn hơn nữa. Theo tôi, nên để DN tự thân vận động, nếu có chăng chỉ nên quy định việc phát hành TP phải thỏa các điều kiện chặt chẽ hơn, và mức lãi suất chỉ được tối đa là bao nhiêu. Thế nhưng, nếu can thiệp như vậy sẽ làm thị trường không tự nhiên, chưa kể phải xin ý kiến để sửa luật mới có thể thực hiện được. Vì lẽ đó, cơ quan quản lý chỉ nên can thiệp nếu điều này vượt quá một mức giới hạn và tránh ảnh hưởng đến các DN thuộc các lĩnh vực khác.
- Xin cảm ơn ông.
HẢI HỒ (thực hiện)
Theo saigondautu.com.vn
Lãi suất ngân hàng TMCP Phát triển TP HCM (HDBank) mới nhất Ngân hàng TMCP Phát triển TP HCM (HDBank) là ngân hàng tiếp theo thay đổi biểu lãi suất mới nhất. Ngân hàng TMCP Phát triển TP HCM (HDBank )Cụ thể, ngân hàng HDBank cũng đã đẩy lãi suất lên cao nhất là 7,9%/năm đi kèm một trong hai điều kiện. Thứ nhất là không phân biệt bao nhiêu tiền, song phải là khách...