Thời gian làm các thủ tục thương mại qua biên giới với hàng xuất khẩu giảm hơn 57 giờ
Theo kết quả khảo sát của Tổ công tác liên ngành về Chỉ số giao dịch thương mại qua biên giới năm 2019 và 2020 cho thấy tổng thời gian trung bình thực hiện thủ tục thương mại qua biên giới đối với hàng xuất khẩu năm 2020 là 38,4 giờ, giảm 57,38 giờ so với năm 2019 (95,78 giờ).
Ngành hải quan đang thực hiện mục tiêu “cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục hải quan”. Ảnh minh họa: TTXVN
Cách tính này bao gồm thời gian thực hiện các thủ tục tại cửa khẩu và thời gian chuẩn bị hồ sơ, theo cách tính của Ngân hàng Thế giới tại Báo cáo Môi trường kinh doanh. Tổng chi phí trung bình thực hiện thủ tục thương mại qua biên giới đối với hàng xuất khẩu năm 2020 là 338 USD, giảm 81,72 USD so với năm 2019 (419,72 USD).
Trong số đó, thời gian trung bình thực hiện các thủ tục tại cửa khẩu đối với hàng xuất khẩu năm 2020 là 28,3 giờ, giảm 22,58 giờ; thời gian chuẩn bị hồ sơ xuất khẩu là 10,1 giờ, giảm 34,8 giờ so với kết quả năm 2019. Chi phí trung bình thực hiện các thủ tục tại cửa khẩu đối với hàng xuất khẩu là 266,76 USD, giảm 15,52 USD; chi phí trung bình chuẩn bị hồ sơ xuất khẩu là 71,24 USD, giảm 66,2 USD so với kết quả năm 2019.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, tổng thời gian trung bình thực hiện thủ tục thương mại qua biên giới đối với hàng nhập khẩu năm 2020 là 54,8 giờ, giảm 48,88 giờ so với năm 2019 (103,68 giờ,); tổng chi phí trung bình thực hiện thủ tục thương mại qua biên đối với hàng nhập khẩu năm 2020 là 313,17 USD, giảm 256,41 USD so với năm 2019.
Thời gian trung bình thực hiện các thủ tục tại cửa khẩu đối với hàng nhập khẩu năm 2020 là 27,17 giờ, giảm 20,83 giờ; thời gian trung bình chuẩn bị hồ sơ nhập khẩu là 27,63 giờ, giảm 28,05 giờ so với kết quả năm 2019. Chi phí trung bình thực hiện các thủ tục tại cửa khẩu đối với hàng nhập khẩu năm 2020 là 214,23 USD,giảm mạnh 195,65 USD so với năm 2019; chi phí trung bình chuẩn bị hồ sơ nhập khẩu là 98,94 USD, giảm 60,76 USD so với năm 2019.
Theo phản ánh của doanh nghiệp, một trong những nguyên nhân quan trọng giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí thực hiện các thủ tục thương mại qua biên giới đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là việc điện tử hóa các chứng từ như: các chứng từ kiểm tra chuyên ngành được gửi qua Hệ thống Một cửa quốc gia, áp dụng C/O điện tử…, đặc biệt là quy định về nộp chứng từ điện tử trong thực hiện thủ tục hải quan theo Nghị định 59/2018/NĐ-CP ngày 20/4/2018 của Chính phủ và Thông tư 39/2018/TT-BTC ngày 20/4/2018 của Bộ Tài chính.
Trong số các doanh nghiệp trả lời khảo sát có đến 94% doanh nghiệp nhập khẩu và 98% doanh nghiệp xuất khẩu cho biết việc áp dụng chứng từ điện tử đã giúp họ giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hải quan.
Các doanh nghiệp cho biết việc nộp chứng từ điện tử thay thế chứng từ giấy đã giúp tiết kiệm nhiều thời gian và chi phí cho việc chuẩn bị hồ sơ cũng như thực hiện thủ tục thông quan như: chi phí in ấn hồ sơ, thời gian và chi phí đi lại của nhân viên làm thủ tục,…; thời gian thông quan nhanh cũng giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ công việc, tiết kiệm được nhiều chi phí hơn.
Bên cạnh đó, việc triển khai hệ thống quản lý giám sát hải quan tự động (VASSCM) giúp giảm thời gian thực hiện các thủ tục giao nhận hàng tại cảng cũng là nguyên nhân giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục thương mại qua biên giới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
Video đang HOT
Tổng cục Hải quan cho biết, tổng số tờ khai nhập khẩu năm 2020 của Việt Nam là khoảng 6,75 triệu tờ khai, tổng số tờ khai xuất khẩu của Việt Nam là xấp xỉ 6,98 triệu tờ khai.
Theo kết quả khảo sát, nếu tính thời gian trung bình thực hiện thủ tục thương mại qua biên giới cho mỗi lô hàng tương ứng với mỗi tờ khai thì năm 2020 các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã tiết kiệm được tổng cộng khoảng 730,4 triệu giờ tương ứng với khoảng 981 triệu USD chi phí gián tiếp và khoảng 2.301 triệu USD chi phí trực tiếp, tổng cộng tiết kiệm được khoảng 3.282 triệu USD cho hoạt động xuất nhập khẩu so với năm 2019.
Triển khai Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, trong đó giao Bộ Tài chính chủ trì, chịu trách nhiệm đối với chỉ số Giao dịch thương mại qua biên giới với mục tiêu đến năm 2021 tăng từ 10-15 bậc, Bộ Tài chính đã thành lập Tổ công tác liên ngành theo Quyết định 881/QĐ-BTC ngày 27/5/2019 với nhiệm vụ khảo sát, triển khai các giải pháp nhằm giảm thời gian và chi phí xuất nhập khẩu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, nâng cao xếp hạng Chỉ số Giao dịch thương mại qua biên giới.
Tổ công tác liên ngành bao gồm các thành viên thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Khoa học và Công nghệ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam -VAMA, Hiệp hội các doanh nghiệp Logistics Việt Nam – VLA.
Chỉ số “Giao dịch thương mại qua biên giới” là một cấu phần của bộ chỉ số đánh giá chất lượng Môi trường kinh doanh toàn cầu tại Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business) được Ngân hàng Thế giới thực hiện thường niên từ năm 2001 đến nay đối với 10 lĩnh vực kinh tế của 190 quốc gia.
Chỉ số “Giao dịch Thương mại qua biên giới” đo lường thời gian và chi phí thực hiện toàn bộ quá trình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, đánh giá một cách toàn diện về hoạt động của tất cả các cơ quan liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa qua biên giới bao gồm cơ quan hải quan và các đơn vị liên quan khác (cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị kinh doanh kho bãi cảng, đơn vị vận tải…).
Ế ẩm hiếm có: Ô tô tồn kho hàng vạn chiếc, nhà máy dừng sản xuất
Thị trường ô tô Việt Nam chưa kịp khởi sắc đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19.
Điều này khiến doanh số bán của xe sản xuất lắp ráp trong nước bị đẩy lùi. Ngành công nghiệp ô tô đứng trước một tương lai ảm đạm.
Doanh số thấp kỷ lục
Theo số liệu từ Hiệp hội các Nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), doanh số bán ô tô tháng 8/2021 của các doanh nghiệp thành viên đạt 8.884 xe, giảm tới 45% so với tháng 7/2021 và 57% so với tháng 8/2020. Đây là tháng thứ 5 liên tiếp thị trường ô tô bị sụt giảm doanh số bán lẻ và là tháng có doanh số bán thấp kỷ lục trong lịch sử của thị trường ô tô Việt Nam kể từ năm 2015 đến nay.
Mức suy giảm tương tự cũng được ghi nhận đối với thành viên không thuộc VAMA là TC Motor, doanh số bán tháng 8 chỉ đạt 2.182 xe giảm 54% so với tháng 7/2021 và hơn 60% so với tháng 8/2020. Còn VinFast có doanh số bán đạt 2.310 xe, giảm mạnh so với 3.782 xe của tháng 7/2021, nhưng vẫn tăng 1.494 xe so với tháng 8/2020.
Tháng 8/2021 trùng thời điểm với tháng Ngâu, đồng thời nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước thực hiện giãn cách xã hội nghiêm ngặt để phòng chống dịch Covid nên đã ảnh hưởng mạnh đến thị trường ô tô.
Số lượng xe tồn kho của các DN rất lớn
VAMA cho biết, kể từ khi đợt dịch thứ 4 bùng phát vào ngày 27/4 đến nay, nhiều nhà máy ô tô đã phải tạm dừng sản xuất. Với những doanh nghiệp còn hoạt động thì lại gặp một trở ngại khác, đó là số lượng xe tồn kho rất lớn, do việc dừng hoạt động của các đại lý.
Ước tính, khoảng hơn 200 đại lý ô tô thuộc thành viên VAMA vẫn đang đóng cửa và chưa thể mở cửa trở lại. Cùng với đó là hơn 200 xưởng dịch vụ cũng không thể hoạt động. Có thể nói chuỗi cung ứng và các hoạt động phân phối đã bị đình trệ và bị ảnh hưởng nặng nề, nhiều công ty đã ghi nhận mức sụt giảm doanh số trên 60%. So với thời điểm tháng 8/2019 khi dịch Covid chưa xuất hiện, doanh số bán hàng của các thành viên VAMA đã giảm tới 18%.
Cũng theo VAMA, doanh số bán ô tô sản xuất lắp ráp nước tháng 8/2021 chỉ đạt 5.345 xe, giảm 41% so với tháng trước; so với tháng 8/2019 giảm 17%. Tính chung cả 8 tháng đầu năm, doanh số bán xe lắp ráp của các doanh nghiệp thành viên VAMA chỉ đạt 99.454 xe. Nếu tính cả hai công ty là TC Motor và VinFast thì doanh số bán xe sản xuất lắp ráp trong nước đạt hơn 162.000 xe các loại.
Tương lai ảm đạm
Theo các doanh nghiệp, do tiêu thụ ô tô vào cuối năm 2020 và quý 1/2021 khả quan nên đã đẩy mạnh sản xuất lắp ráp, nhập khẩu xe đáp ứng nhu cầu. Tuy nhiên, sang quý 2 khi dịch Covid bùng phát với diễn biến phức tạp kéo dài, nhu cầu giảm đột ngột, đã dẫn đến tồn kho lớn.
Vào cuối tháng 7/2021, tổng hợp số liệu của Bộ Công Thương, VAMA và Tổng cục Hải quan cho thấy, các doanh nghiệp tồn kho hơn 40.000 ô tô. Hết tháng 8, lượng tồn kho tăng ước tính vượt trên 50.000 xe các loại. Các doanh nghiệp ô tô tình trạng thừa cung, tồn kho cao và đứt thanh khoản.
Các doanh nghiệp còn phải đối diện với nhiều áp lực về tài chính khi vẫn phải duy trì các chi phí hoạt động và ít được miễn giảm từ các đối tác, cơ quan Nhà nước. Cùng với đó là chi phí phòng chống dịch, chi phí vận tải, chi phí bảo quản hàng tồn kho tăng.
Ngành công nghiệp ô tô đứng trước một tương lai ảm đạm.
Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô và các đại lý bán hàng tại khu vực phía Nam phải dừng hoạt động, đóng cửa từ giữa tháng 7/2021. Còn phía Bắc, các doanh nghiệp cũng chỉ hoạt động từ 30-50% công suất, nhiều đại lý cũng phải đóng cửa, người lao động nghỉ việc hàng loạt.
"Chúng tôi đã thực hiện cắt giảm tối đa chi phí. Doanh nghiệp ngừng kinh doanh, đồng nghĩa với việc người lao động phải nghỉ việc và hưởng lương tối thiểu, cuộc sống sẽ rất khó khăn", đại diện một doanh nghiệp ô tô FDI nói.
Các doanh nghiệp ô tô dự đoán, doanh số bán xe 4 tháng còn lại của năm nay có thể giảm từ 30-40% so với cùng kỳ 2020. Do diễn biến phức tạp của dịch bệnh, nhiều địa phương chưa thoát khỏi giãn cách. Chưa kể, nhiều doanh nghiệp đang trong tình trạng thua lỗ, nợ nần, thiếu tiền, còn người lao động mất việc làm, thu nhập giảm, khiến cho nhu cầu về ô tô giảm mạnh. Bức tranh ảm đạm vẫn đang chờ ngành ô tô phía trước.
Thị trường ô tô Việt Nam mới khởi sắc được vài năm, đến 2020 thì bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch và năm 2021 cũng tương tự. Doanh số bán của xe sản xuất lắp ráp trong nước sụt giảm mạnh. Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đang bị đẩy lùi. Theo VAMA, doanh số bán hàng của xe lắp ráp trong nước năm 2020 giảm 1% so với 2019, đấy là còn được hỗ trợ 50% lệ phí trước bạ 6 tháng nửa cuối năm. Năm nay, tình hình dịch bệnh nặng nề hơn và kéo dài nhưng không nhận được sự hỗ trợ như vậy từ chính quyền.
Trong khi đó, chính sách ưu đãi dành cho ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước chưa đủ mạnh. Do vậy sản lượng thấp, doanh nghiệp gặp khó trong việc nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Xe nội ngày càng bất lợi so với xe nhập khẩu. Gặp đại dịch Covid-19, khó khăn lại thêm chồng chất. Các doanh nghiệp cho rằng, cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi hấp dẫn để giúp ngành công nghiệp ô tô phát triển. Giảm thuế phí để kích cầu tiêu dùng là rất cần thiết.
Tăng phòng ngừa, giảm bất lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu sang Canada Canada hiện là quốc gia điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) nhiều thứ 4 đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam chỉ sau Hoa Kỳ, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ. Nhằm hạn chế các rủi ro cho doanh nghiệp, các biện pháp hỗ trợ ứng phó với các biện pháp này sẽ đóng vai trò quan...