Thiệt hại do bệnh dịch quá lớn, các nước xóa nhòa ranh giới vay tiền và in tiền
Bị buộc phải chi tiêu kỷ lục do đại dịch COVID-19, các nhà lập pháp đang xóa nhòa ranh giới giữa vay tiền và in tiền.
Trụ sở Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tại Washington, DC, Mỹ. Ảnh: AFP
Hầu hết các nền kinh tế đều cố gắng tách bạch hai hoạt động vay tiền và in tiền càng rõ càng tốt. Thông thường, các quan chức phụ trách ngân sách sẽ khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách bằng cách đi vay tiền trên thị trường trái phiếu. Còn việc in tiền lại là nhiệm vụ của ngân hàng trung ương.
Theo Bloomberg, các ranh giới giữa hai hoạt động bắt đầu nhòa đi sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Trong cuộc khủng hoảng dịch COVID-19 hiện nay, các ranh giới này đã biến mất.
Khi nhiều ngành kinh tế đổ vỡ và tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt, chỉ có chi tiêu công mới giúp hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp sống sót. Các chính phủ có trách nhiệm thực hiện nỗ lực giải cứu sẽ chịu cảnh thâm hụt ngân sách tồi tệ nhất trong lịch sử. Ít nhất thì họ cũng lấy tiền cho gói giải cứu bằng các khoản vay từ chính ngân hàng trung ương trong nước – khoản nợ có thể gia hạn vô thời hạn.
Ông Paul McCulley, cựu nhà kinh tế trưởng tại công ty quản lý đầu tư Thái Bình Dương (Pimco), nhận định: “Chúng ta đã có sự liên kết giữa chính sách tài chính và tiền tệ. Chúng ta đã phá vỡ tính rạch ròi giữa hai chính sách. Chúng ta chỉ chưa tuyên bố điều đó mà thôi. Mà thực ra cũng không cần phải tuyên bố, các chính phủ cứ thế mà làm thôi”.
Theo ước tính của Bloomberg, ở Mỹ, Ngân hàng Dự trữ Liên bang (FED) định mua 3.500 tỷ USD trái phiếu năm 2020. Phần lớn trong số đó sẽ là trái phiếu kho bạc dùng để trang trải đa phần khoản thâm hụt tài chính được dự báo sẽ lên tới ít nhất 3.700 tỷ USD. Không ai biết khi nào các khoản nợ sẽ được chuyển từ nợ công vào tay các nhà đầu tư tư nhân.
Italy đã thông qua gói kích thích kinh tế 55 tỷ euro để hỗ trợ doanh nghiệp và hộ gia đình. Ảnh: AFP/TTXVN
Tình huống tương tự đang xảy ra khắp các nền kinh tế phát triển, từ châu Âu tới Nhật Bản, thậm chí xảy ra cả ở các thị trường mới nổi như Indonesia và Ba Lan.
Đằng sau vấn đề “tiền tệ hóa nợ” là nỗi lo lạm phát. Có nhiều giai đoạn trong lịch sử mà các chính trị gia giành quyền kiểm soát việc in tiền và đưa quá nhiều tiền vào nền kinh tế, khiến giá cả leo thang vượt tầm kiểm soát, làm suy yếu giá trị thực của mọi khoản tiết kiệm, từ tài khoản ngân hàng tới trái phiếu.
Các ngân hàng trung ương tách rời khỏi chính phủ là để “hãm phanh” khi các chính trị gia đi quá xa. Quyền tự trị của ngân hàng trung ương một ngày nào đó sẽ lại trở nên cần thiết. Tuy nhiên, theo ông McCulley, hiện giờ là lúc chưa cần quyền đó.
Trong đại dịch COVID-19, các nhà kinh tế thấy mối đe dọa xuất phát từ chiều ngược lại: giảm phát là rủi ro lớn hơn lạm phát. Khó khăn là làm thế nào để kích thích nền kinh tế, chứ không phải hạ nhiệt. Khi các nhà hoạch định chính sách hết không gian để kích thích nền kinh tế thông qua biện pháp hạ lãi suất, họ sẽ tìm cách khác. Kết quả là họ dần dần xóa nhòa ranh giới giữa chính sách tiền tệ và tài chính.
Video đang HOT
Sau khi Nhật Bản trở thành nước đầu tiên có lãi suất 0% cuối những năm 1990, các bộ trưởng tài chính nước này đã đẩy mạnh chi tiêu trong khi thống đốc ngân hàng trung ương bắt đầu mua các khoản nợ xuất hiện sau đó. Ngân hàng trung ương mua nợ qua các ngân hàng, chứ không trực tiếp từ Bộ Tài chính. Các khoản này được coi là tạm thời. Điều này cho phép các nhà lập pháp lý luận rằng không có tình trạng tiền tệ hóa nợ. Những người chỉ trích không đồng ý với điều đó nhưng những gì họ cảnh báo, ví dụ như lạm phát tăng vọt, lại không xảy ra.
Sau năm 2008, cuộc tranh cãi nói trên xảy ra khắp thế giới khi ngày càng nhiều nền kinh tế kết hợp thâm hụt ngân sách với “nới lỏng định lượng”. FED đã mua trái phiếu kho bạc trên thị trường mở thông qua một loạt thương nhân. Các ngân hàng trung ương khác cũng hành động tương tự. Các chính sách này thậm chí còn được đẩy xa hơn trong đại dịch hiện nay.
Theo ông Stephen Roach, giảng viên cấp cao tại Đại học Yale, không có lựa chọn nào khác, nền kinh tế đang rơi vào cái hố lớn nhất từ trước tới nay, nên chúng ta cần các khoản kích thích tài chính khổng lồ và ngân hàng trung ương phải vào cuộc để cung cấp tiền cho gói kích thích. Ông Roach cho rằng điều đó không có nghĩa là sẽ không có hậu quả.
Ở Mỹ, hàng loạt gói kích thích do FED hậu thuẫn có nghĩa là lạm phát có thể bắt đầu tăng sau đại dịch. Những người nắm giữ trái phiếu lúc nào cũng thiệt trong giai đoạn lạm phát tăng.
Nhiều chục năm qua, các nền kinh tế phát triển không phải lo lắng điều gì xa xôi như vậy. Lạm phát đã giảm và gần như không tồn tại cho dù các chính phủ có vay tiền nhiều tới đâu và các ngân hàng trung ương cho vay nhiều tới đâu. Vắng bóng lạm phát lâu khiến nhiều người kêu gọi thực hiện các chính sách thậm chí còn táo bạo hơn để kéo các nền kinh tế ra khỏi vũng lầy virus, cho dù có phải xóa nhòa ranh giới nợ và tiền.
Ngân hàng Trung ương Anh cảnh báo nền kinh tế có thể rơi xuống mức thấp nhất trong 300 năm. Ảnh: THX/TTXVN
Ví dụ, tại Liên minh châu Âu, nhà đầu tư George Soros đã đề xuất các nước thành viên hợp lực để phát hành “trái phiếu vĩnh viễn”, tức là không có thời hạn. Ông cho rằng họ có thể trả lãi suất 0,5% hoặc tương tự. Hạ mức lãi suất đó xuống 0% thì trái phiếu đó về cơ bản sẽ là tiền mặt.
Theo dự luật mà hai nghị sĩ Dân chủ ở Hạ viện Rashida Tlaib và Ilhan Omar đề xuất, Bộ Tài chính Mỹ sẽ đúc đồng xu (đồng xu bạch kim trị giá mỗi đồng 1.000 tỷ USD) để có tiền cho các gói kích thích dành cho hộ gia đình mà không cần tăng nợ quốc gia.
Dự luật này còn rất xa vời nhưng nhiều biện pháp khác đang được thực hiện. Ngân hàng Trung ương Anh đã cho chính phủ vay thấu chi. Ngân hàng Trung ương New Zealand cho biết sẽ để ngỏ khả năng mua trái phiếu quốc tế chính phủ trực tiếp. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đang ghìm nợ chính phủ 10 năm ở mức 0%.
Theo ông Nicola Mai, giám đốc danh mục đầu tư tại Pimco, các chính phủ và ngân hàng trung ương có thể sẽ không công khai biến nợ công thành tiền, vì rủi ro với ổn định tiền tệ lớn hơn lợi ích. Ông nói: “Tôi cho rằng không cần hợp tác công khai. Đó là hợp tác ngầm. Nhưng kết quả thì giống nhau: Ngân hàng trung ương hậu thuẫn thị trường trái phiếu quốc tế, tức là cho phép chính phủ chi tiền”.
Nhiều ông lớn viễn thông khốn đốn, dự kiến thiệt hại 40 tỷ USD/năm trong 2 năm tới
Các nhà phân tích trên toàn cầu chỉ ra, với việc hàng loạt sự kiện lớn phải hủy bỏ vì Covid-19, du lịch thế giới "đóng băng", kinh tế suy thoái... các nhà khai thác viễn thông cũng sẽ bị tác động rất mạnh.
Những năm gần đây, các công ty viễn thông lớn đang chịu áp lực từ nhiều phía vì các ứng dụng nhắn tin OTT đang ảnh hưởng đến doanh thu thoại và SMS, dẫn đến cạnh tranh khốc liệt về giá và giảm tỷ suất lợi nhuận. Trong bảng xếp hạng 500 thương hiệu hàng đầu thế giới năm 2020 của Brand Finance, chỉ có 36 thương hiệu viễn thông, mà tới 80% thương hiệu bị giảm giá trị.
Tồi tệ hơn, dịch Covid-19 bùng phát càng làm tăng thêm sức ép đối với các nhà khai thác viễn thông. Thay vì tăng lên thì lưu lượng truy cập data di động trên toàn thế giới lại có xu hướng giảm, vì mọi người sử dụng Wi-Fi tại nhà nhiều hơn là dữ liệu di động. Khi bị cách ly, mọi người cũng có xu hướng phụ thuộc nhiều hơn vào các OTT để liên lạc miễn phí, thay vì gọi hay nhắn tin thông thường.
Mặc dù nhiều nhà phân tích tin rằng một khi vượt qua được đại dịch này, viễn thông sẽ là một trong số ít những ngành đứng vững với sự phát triển của cộng nghệ số, thì đó cũng không phải là con đường dễ dàng cho tất cả các doanh nghiệp trên thị trường. Giá cổ phiếu của các telcos đã được báo cáo giảm và các công ty chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là ở Trung Quốc.
Theo phân tích của Analysys Mason, các nhà khai thác viễn thông dự kiến sẽ chịu sự sụt giảm trung bình 3,4% doanh thu trong năm 2020 do những thách thức xuất phát từ đại dịch Covid-19.
Công ty nghiên cứu này dự báo doanh thu viễn thông trên toàn thế giới sẽ giảm trong năm nay, nhưng lưu ý rằng điều này sẽ là trong ngắn hạn. Họ dự báo ngành này sẽ phục hồi 0,8% bắt đầu từ năm 2021. Trước khi đại dịch gây ra hậu quả kinh tế, Analysys Mason dự báo tăng trưởng doanh thu viễn thông toàn cầu là 0,7% vào năm 2020.
Analysys Mason cho rằng, các nhà khai thác viễn thông tại các nền kinh tế phát triển có thể bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với dự báo thiệt hại doanh thu lên tới 40 tỷ USD/năm cho năm 2020 và 2021.
Một công ty nghiên cứu khác, Juniper Research dự đoán, các hạn chế đi lại nghiêm ngặt trọng do đại dịch Covid-19 sẽ dẫn đến doanh thu chuyển vùng của ngành viễn thông giảm tới 25 tỷ USD trong 9 tháng tới. Cụ thể, hơn một nửa doanh thu chuyển vùng của tất cả các nhà khai thác trong năm 2020 sẽ bị ảnh hưởng, với khoản lỗ lên tới 12 tỷ USD tính riêng trong giai đoạn du lịch quốc tế thường cao điểm (giữa tháng 6 và tháng 8).
Dưới đây là ước tính thiệt hại của một số telcos hàng đầu:
AT&T
AT&T báo cáo đã không đạt mục tiêu doanh thu và thu nhập trong quý 1/2020, với mức giảm lên tới 4,6%. Đại dịch Covid-19 đã làm AT&T giảm tới 433 triệu USD thu nhập (doanh thu giảm 600 triệu USD), chủ yếu do quảng cáo liên quan đến các sự kiện thể thao giảm. Công ty này ngay từ tháng trước đã cảnh báo các nhà đầu tư rằng đại dịch Covid-19 có thể có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh.
Deutsche Telekom
Công ty này đã tuyên bố sẽ phải đóng cửa các cửa hàng tại Đức trong tháng 3, cho đến khi có thông báo mới. Nhà điều hành viễn thông Đức cho biết, trong bối cảnh khủng hoảng Covid-19, họ sẽ ngừng bán hàng và dịch vụ tại khoảng 500 cửa hàng trên toàn quốc. Họ cũng tạm thời đóng cửa tất cả các cửa hàng tại Hà Lan và 80% các cửa hàng ở Mỹ.
Verizon Communications
Đối thủ của AT&T cho biết trong báo cáo kết quả quý 1 rằng lợi nhuận của khách hàng doanh nghiệp không đủ để bù đắp cho sự suy giảm từ phía người tiêu dùng. Với hàng chục triệu người thất nghiệp, nền kinh tế bế tắc và hầu hết người Mỹ phải cách ly tại nhà, hoạt động kinh doanh tiêu dùng cốt lõi của Verizon đang gặp khó khăn.
Trong 3 tháng đầu năm, Verizon đã mất 68.000 thuê bao điện thoại trả sau, con số mất thuê bao này nghiêm trọng hơn 54% so với cùng kỳ năm 2019. Verizon cũng đã phải đóng cửa các cửa hàng của mình. Gần 70% các điểm bán lẻ của họ đã bị đóng cửa.
Telenor
Công ty này đãcảnh báo sự bất ổn xung quanh tình hình Covid-19 có thể sẽ ảnh hưởng đến tài chính của họ trong năm 2020, mặc dù nhà điều hành đã cố gắng vượt qua các tác động của đại dịch trong ngắn hạn.
Trong một tuyên bố, CEO Sigve Brekke cho biết công ty bắt đầu thấy tác động từ sự lây lan toàn cầu của cuộc khủng hoảng, ảnh hưởng đến hiệu suất của họ từ cuối tháng 3, khi họ gặp phải tình huống phong tỏa ở nhiều thị trường. Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến doanh thu chuyển vùng và thị trường trả trước châu Á. Những hiệu ứng này đang tiếp tục vào quý 2, Brekke nói.
Ngân hàng trước nguy cơ tăng nợ xấu Do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, hàng loạt doanh nghiệp gặp khó khăn dẫn tới nợ xấu của các ngân hàng có nguy cơ tăng. Theo thống kê, khoảng 23% dư nợ toàn hệ thống ngân hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Để đối phó với nợ xấu gia tăng, các ngân hàng cần chấp nhận giảm lợi nhuận, trích lập dự...