Thế giới chìm trong biển nợ vào đầu năm 2020
Viện Tài chính Quốc tế (IIF) cho biết nợ toàn cầu tăng 9.000 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm ngoái lên mức kỷ lục 253.000 tỷ USD. Con số sẽ tiếp tục tăng trong năm 2020.
Theo CNN, IIF cho biết tỷ lệ nợ trên GDP toàn cầu lên tới 322%, vượt qua kỷ lục cũ của năm 2016. Đáng chú ý, hơn 50% tổng nợ toàn cầu tập trung ở các nước phát triển như Mỹ và châu Âu. Tổng nợ của các nền kinh tế phát triển tương đương 383% GDP.
Tại các quốc gia giàu có như New Zealand, Thụy Sĩ và Na Uy, nợ của các hộ gia đình tăng vọt. Trong khi đó, nợ chính phủ của Mỹ và Australia đều đang ở mức cao kỷ lục.
Nợ toàn cầu tăng lên tới 253.000 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2019. Ảnh: CNN.
Các thị trường mới nổi có nợ thấp hơn, chỉ khoảng 72.000 tỷ USD. Tuy nhiên, IIF cho biết nợ của các nền kinh tế này đã tăng rất nhanh trong vài năm qua.
Ví dụ, nợ của Trung Quốc chạm mốc 310% GDP, cao nhất trong nhóm các nước đang phát triển. Sau nỗ lực giảm nợ của chính phủ Trung Quốc hồi năm 2017 và 2018, nợ đã tăng trở lại vào năm 2019.
IIF cảnh báo khối nợ khổng lồ là nguy cơ lớn đối với nền kinh tế toàn cầu, và dự kiến tiếp tục phình to hơn trong năm 2020. Dự báo tổng nợ toàn cầu sẽ vượt qua ngưỡng 257.000 tỷ USD trong quý đầu tiên của năm 2020.
Theo news.zing.vn
Loạt khó khăn chực chờ Vietinbank trong năm 2020
Các quy định mới của NHNN sẽ hạn chế khả năng mở rộng biên lãi ròng của các ngân hàng quốc doanh trong khi tác động tới các ngân hàng tư nhân sẽ là đa chiều.
Video đang HOT
Kết phiên giao dịch cuối năm 2019, cổ phiếu CTG của Vietinbank đóng cửa tại mức 20.900 đồng/cp, ghi nhận mức tăng 11% trong vòng 1 năm qua.
Đây không phải là cổ phiếu có mức giá quá cao nhưng lại không được Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) đánh giá cao để đầu tư trong năm 2020.
CTG bị ảnh hưởng nhiều nhất từ các quy định mới của NHNN?
VDSC tin rằng ACB, BID, MBB, VCB, VPB, HDB, TPB, TCB và VIB sẽ có thể duy trì tăng trưởng cho vay năm 2020 tương đương với năm 2019, thậm chí cao hơn với trường hợp của BID.
Trong khi đó, CTG nhiều khả năng sẽ gặp khó khăn trong việc tăng vốn vào năm tới, do đó tăng trưởng tín dụng dự kiến sẽ còn thấp hơn so với năm 2019.
Từ cuối năm 2019 và đầu năm 2020, nhiều quy định mới về lãi suất, an toàn vốn, huy động, tài chính tiêu dùng đi vào hiệu lực. Do đó, theo phân tích của VDSC, các quy định này sẽ có tác động nhiều chiều đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ nhất, quy định về việc giảm lãi suất tiền gửi đối với một số kỳ hạn ngắn và lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên (từ tháng 11/2019) có thể có tác động trước mắt rất khác nhau phụ thuộc vào chính sách cụ thể của từng ngân hàng. Dù vậy về lâu dài, do mục tiêu giảm mặt bằng lãi suất của Chính phủ, VDSC cho rằng khả năng mở rộng lợi tức tài sản của các ngân hàng sẽ trở nên hạn chế hơn.
Thứ hai, các yêu cầu về an toàn vốn mới (theo Thông tư 41/2016-TT-NHNN) và việc giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (Thông tư 22/2019) đặt ra yêu cầu chặt chẽ hơn về vốn và huy động. Do đó dự kiến sẽ hạn chế khả năng mở rộng NIM của các ngân hàng.
Tác động của các quy định này sẽ mạnh hơn đối với các ngân hàng có bộ đệm vốn mỏng (như CTG) hay tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cao (như VIB và TCB).
Thứ ba, việc áp dụng tỷ lệ LDR tối đa mới đồng bộ ở mức 85% cho tất cả các ngân hàng (Thông tư 22) sẽ cho phép các ngân hàng tư nhân có thêm cơ hội đẩy mạnh tỷ lệ này (so với mức ngưỡng tối đa 80% trước đây) để cải thiện NIM.
Trái lại, việc giảm tỷ lệ LDR tối đa đối với các ngân hàng quốc doanh từ 90% xuống 85% dự kiến sẽ khiến các ngân hàng này phải kiềm chế tín dụng hoặc đẩy mạnh huy động, theo đó làm ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng và biên lãi ròng.
Thứ tư, quy định về việc chuyển số dư tiền gửi không kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước tại các ngân hàng thương mại về NHNN vào cuối mỗi ngày (Thông tư 58/2019) nhiều khả năng sẽ ảnh hưởng đến chi phí huy động của các ngân hàng quốc doanh, nơi có tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước cao.
Thứ năm, quy định quản lý chặt chẽ hơn hoạt động cho vay của các công ty tài chính tiêu dùng (Thông tư 18/2019). Theo đó giảm dần tỷ lệ giải ngân trực tiếp cho khách hàng (có số dư nợ giải ngân trực tiếp tại công ty tài chính tiêu dùng đó trên 20 triệu đồng) về 30% kể từ năm 2024.
VDSC cho rằng tác động của Thông tư 18 sẽ chưa đáng kể trong ngắn hạn, dù trong dài hạn nhiều khả năng sẽ có ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng và biên lãi ròng của các công ty tập trung cho vay tiền mặt như FE Credit và MCredit.
Tựu chung lại, VDSC cho rằng các quy định mới của NHNN sẽ hạn chế khả năng mở rộng biên lãi ròng của các ngân hàng quốc doanh (CTG nhiều khả năng bị ảnh hưởng nhiều nhất) trong khi tác động tới các ngân hàng tư nhân sẽ là đa chiều do đó sẽ có mức độ ảnh hưởng nhẹ hơn (ACB và HDB nhiều khả năng là những ngân hàng ít bị ảnh hưởng nhất).
Năm 2020, dự kiến CTG tiếp tục phải chịu gánh nặng dự phòng
Tính đến tháng 8/2019, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn ngành ở mức 1,98% (cao hơn một chút so với mức 1,90% vào cuối năm 2018 và quý 2/2019). Tuy nhiên, tổng tỷ lệ nợ xấu, VAMC và nợ tiềm ẩn so với tổng tín dụng đã giảm dần xuống còn 4,84% từ 5,85% trong năm 2018. Đây là tín hiệu tích cực về nỗ lực xử lý nợ xấu trong hệ thống.
Đặc biệt, VPB và TPB đã có thể tất toán hết nợ VAMC còn lại trong năm 2019, do đó, tỷ lệ chi phí dự phòng so với thu nhập hoạt động dự kiến sẽ giảm vào năm 2020.
Trong khi đó, với một phần nhỏ nợ VAMC còn lại, BID và HDB sẽ vẫn phải trích lập một khoản dự phòng cho VAMC trong năm 2020, dù có thể thấp hơn nhiều so với năm 2019. Ngoài ra, nếu việc sáp nhập giữa HDB và PGBank diễn ra, HDB sẽ gánh các khoản nợ VAMC của PGBank (tại tháng 9/2019 đang có số dư 908 tỷ đồng).
Về phía CTG, với số dư VAMC ròng lớn ở mức trên 8 nghìn tỷ vào quý 3/2019 (0,9% dư nợ), gánh nặng dự phòng dự kiến sẽ tiếp tục đáng kể vào năm 2020 dù ngân hàng đã nỗ lực xử lý được 25% dư nợ VAMC trong 9 tháng qua.
Cổ phiếu CTG "ngoài vùng định giá"
Nhìn chung, đối với 8 ngân hàng ACB, BID, MBB, VCB, VPB, HDB, TPB và TCB, VDSC kỳ vọng thu nhập sẽ tăng 16% và lợi nhuận sẽ tăng 23,7% trong năm 2020, với chi phí dự phòng gần như không đổi và chi phí hoạt động tăng 20%.
VDSC ước tính rằng tất cả các ngân hàng này, không tính CTG, sẽ có thể đạt tăng trưởng lợi nhuận ít nhất 15%. Hiện tại mức định giá thấp (PB dự phóng 2020 ở mức 0.9-1.2 lần) và khả năng sinh lời cao (ROE dự phóng 2020 từ 20-24%) sẽ là lợi thế của các cổ phiếu ngân hàng. Lưu ý rằng hầu hết các ngân hàng tư nhân đều đã không còn room sở hữu nước ngoài.
VPB và BID là các cổ phiếu VDSC ưa thích nhất. Bởi theo VDSC, tỷ lệ PB hiện tại của VPB là rất hấp dẫn (dự phóng 2020 ở mức 0,9 lần dự phóng 2021 ở mức 0,7 lần), mặc dù cổ phiếu không còn room sở hữu nước ngoài.
Còn với BID, một ngân hàng quốc doanh đã có nhiều tiến triển tích cực trong quá trình tái cơ cấu dù mức tăng trưởng lợi nhuận khá khiêm tốn trong 9T 2019. BID đang được giao dịch ở mức PB dự phóng 2020 2,0 lần, cao hơn so với các ngân hàng khác (ngoại trừ VCB).
Tuy nhiên, VDSC cho rằng BID xứng đáng với mức PB này do tiềm năng tăng trưởng được dự báo sẽ tốt hơn đáng kể sau thành công của thương vụ phát hành cho đối tác chiến lược Keb Hana Bank và sau khi xử lý hết nợ VAMC. VDSC ước tính rằng lợi nhuận sau thuế sẽ đạt tăng trưởng kép hàng năm ở mức 30% trong giai đoạn 2019-2022 và ROE sẽ tiệm cận mức 18% trong ba năm tới.
Minh An
Theo vietnamdaily.net.vn
Triển vọng kinh tế toàn cầu 2020 Bù lại cho sự sụt giảm kinh tế được dự báo diễn ra ở các nước có nền kinh tế mạnh thì các nền kinh tế thị trường mới nổi sẽ đóng góp không ít cho sự tăng trưởng của năm 2020. Trong bối cảnh vấn đề thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc chưa được giải quyết, kinh tế được dự báo...