Thế giới bình yên hơn, chứng khoán Việt sẽ sáng
Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và Fed tăng lãi suất là 2 nguyên nhân chính khiến thị trường tài chính toàn cầu chao đảo năm 2018. Tuy nhiên, năm 2019, thế giới có dấu hiệu bình yên hơn.
Có thể nhận thấy xu hướng đón đầu cơ hội thị trường khá rõ của dòng tiền
Cuộc chiến thương mại sẽ dần được hóa giải
Cú giảm tốc quá nhanh của nhiều nền kinh tế là nguyên nhân khiến các nhà lãnh đạo phải hành động thận trọng hơn. Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung là nguồn gốc và chắc chắc sẽ phải được hóa giải.
Mỹ có thể sẽ không vội vàng đàm phán khi mà chính sách đã thiết lập ra để chế ngự Trung Quốc đang tỏ ra hiệu quả. Trung Quốc mới là người mong muốn đàm phán hơn cả. Nhưng Mỹ cũng đang chịu tác động không nhỏ từ cuộc chiến này.
Vì thế, cuộc đàm phán chắc chắn sẽ diễn ra, dự báo Mỹ sẽ nới dần những biện pháp kèm theo tuyên bố áp dụng trở lại nếu Trung Quốc không tuân thủ. Thay thế cho hành động khiến cả hai bên đều tổn hại, Mỹ nhiều khả năng sẽ sử dụng phương án riêng lẻ đối với những tập đoàn lớn của Trung Quốc, có tham vọng và ảnh hưởng tới Mỹ cũng như đồng minh.
Tổng thống Mỹ Donald Trump có lẽ thừa hiểu, cuộc bầu cử tiếp theo vào năm 2020 không còn quá xa và ông cần cố gắng giữ những thành quả đạt được. Ba đời tổng thống với 6 nhiệm kỳ trước đó không thể kiểm soát và chế ngự được Trung Quốc, nhưng ông lại làm được.
Ngay cả Hạ viện vốn không ưa ông cũng đã lên tiếng rằng, hãy tiếp tục chính sách thuế với hàng hóa Trung Quốc. Đây là lợi thế không nhỏ của ông Trump trong cuộc đua vào Nhà Trắng nhiệm kỳ 2.
Với Donald Trump, kiềm chế Trung Quốc đã phát huy tác dụng, nhưng điều quan trọng hơn cả trong giai đoạn cuối nhiệm kỳ chính là kinh tế Mỹ, lạm phát, thất nghiệp. Đây mới là những yếu tố quan trọng cho cuộc đua vào năm sau và nó có thể khiến cho mọi thành quả của ông trở nên vô nghĩa nếu như mọi thứ ngày càng tồi tệ đi.
Trước khi ông lên nắm quyền, không ít ý kiến chỉ trích rằng, thị trường chứng khoán có thể sụp đổ và nền kinh tế Mỹ sẽ chao đảo. Cho đến nay, những điều lo ngại trên không xảy ra, nhưng họ vẫn giữ nguyên quan điểm đó, với luận điệu của chu kỳ 10 năm. Kinh tế Mỹ đang có dấu hiệu chậm lại và những quan điểm trên bắt đầu quay lại và đó là lúc ông cần có các quyết sách để cải thiện tình hình.
Có thể nhận định, nút thắt thuế sẽ được nới, nhưng cần có thời gian đủ để Trung Quốc “ngấm đòn” sâu hơn. Sau đó, mọi thứ sẽ dần quay trở lại quỹ đạo. Mặc dù vậy, nguy cơ kinh tế Trung Quốc suy thoái luôn là nỗi lo của các nhà kinh tế cũng như giới đầu tư. Cuộc khủng hoảng lớn có thể bắt đầu từ đây, theo một cách bất ngờ nhất, dù đã có những dự báo.
Chính góc nhìn này cùng với nhiều số liệu yếu kém khiến không ít doanh nghiệp của Trung Quốc cảm thấy bất an. Tìm kiếm giải pháp và dịch chuyển dần sang các quốc gia có lợi thế là phương án được tính đến.
Cơ hội thu hút đầu tư vào Việt Nam
Việt Nam với lợi thế tăng trưởng tích cực từ nhiều năm cộng hưởng với một Chính phủ kiến tạo đang tạo nên tiếng vang nhất định, trở thành điểm sáng để đón nhận làn sóng dịch chuyển trên. Chúng ta đã có được hình ảnh và tiếng nói lớn sau những sự kiện mang tầm quốc tế như hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Triều Tiên diễn ra tại Hà Nội.
Video đang HOT
Sự kiện văn hóa thể thao tầm cỡ khu vực năm 2018 tiếp tục mang đến sự tự hào cũng như sự đồng lòng của nhân dân. Giải đua xe công thức 1 sẽ diễn ra vào tháng 4/2020 sẽ củng cố hình ảnh của Việt Nam. Đó là những lợi thế về mặt hình ảnh và sự kiện để thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài.
Với chiến lược đón đầu rõ ràng trong chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng để đón tiếp làn sóng dịch chuyển trên và đang mang lại kết quả khả quan. Thống kê về FDI cho thấy, quý I/2019 đạt kỷ lục hơn 10 tỷ USD về giá trị vốn đầu tư đăng ký so với cùng kỳ trong vòng 3 năm trở lại đây (quý I/2016 đạt 4,03 tỷ USD, quý I/2017 đạt 7,71 tỷ USD, quý I/2018 đạt 5,8 tỷ USD). Nhiều tập đoàn hàng đầu như Boeing, Foxcoon… đều tìm đường đến Việt Nam tạo dựng cơ sở mới.
Trên cơ sở đó, một xu hướng tích cực tiếp theo đang được Chính phủ tiếp cận một cách mạnh mẽ và quyết liệt. Đó là mục tiêu mới, tầm nhìn mới đối với thị trường chứng khoán cho giai đoạn 2020 – 2025. Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 242 ngày 28/2/2019 với những mục tiêu cụ thể: quy mô thị trường cổ phiếu đạt mức 100% GDP vào năm 2020 và 120% GDP vào năm 2025, quy mô thị trường trái phiếu đạt mức 47% GDP vào năm 2020 và 55% GDP vào năm 2025, số lượng công ty niêm yết đến năm 2020 tăng 20% so với năm 2017…
GDP năm 2018 đạt khoảng 238 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng GDP 2 năm 2019 và 2020 là 6,8% thì GDP năm 2020 đạt khoảng 272 tỷ USD. Năm 2018, quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán đạt khoảng 75%, tương đương 178 tỷ USD; để có được quy mô 100% GDP vào năm 2020 thì tăng trưởng vốn hóa mỗi năm phải là 24%.
Bài toán này chỉ có thể giải bằng đáp án là nhanh chóng IPO các doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh thoái vốn nhà nước và buộc các công ty đại chúng tuân thủ quy định lên sàn. Song hành với đó là tạo ra một sân chơi đủ lớn, minh bạch và nhiều công cụ thu hút dòng tiền. Tất cả nhiệm vụ đó đều phục vụ cho một mục tiêu lớn là nâng hạng thị trường từ cận biên lên thị trường mới nổi. Khi đó, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ thu hút hàng tỷ USD dòng vốn thụ động theo chân các quỹ ETF chảy vào.
Những khó khăn, vướng mắc trong việc nâng hạng thị trường cũng được Thủ tướng chỉ đạo trong đề án trên. Trong đó, Chính phủ đã yêu cầu sửa đổi cùng lúc 3 luật là Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, giải quyết tất cả những vướng mắc đang tồn tại trong thu hút vốn, đặc biệt liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài; cố gắng thông qua ngay trong năm 2019 và có hiệu lực kể từ năm 2020.
Điểm nhấn nới room và triển vọng TTCK
Luật Chứng khoán sửa đổi là điểm nhấn lớn, bởi khi có hiệu lực, giới hạn sở hữu cổ phần (room) cho khối ngoại tự động được nâng lên 100% mà không cần thông qua đại hội đồng cổ đông như trước, miễn là doanh nghiệp không nằm trong 235 ngành nghề bị kiểm soát.
Trước đây, nhà đầu tư nước ngoài thường than phiền rằng, có rất nhiều doanh nghiệp đáng đầu tư đều kín room như FPT, REE…; trường hợp được phép nới room phải chờ đại hội đồng cổ đông thông qua, trong khi những “ông chủ” có tỷ lệ sở hữu lớn có thể sẽ phủ quyết.
Vì thế, Luật Chứng khoán sửa đổi quy định về room theo hướng tự động nâng lên 100% là câu chuyện lớn, một mặt tạo ra áp lực với chính những “ông chủ” doanh nghiệp đang kín room 49% về cải thiện kinh doanh, về khả năng duy trì doanh nghiệp nếu không muốn bị thâu tóm, mặt khác tạo ra cho khối ngoại một bản danh sách dài hơn những doanh nghiệp mà họ có thể mua và đầu tư.
Trong câu chuyện về room cho khối ngoại, cần nhắc đến nhóm ngân hàng. Đây là nhóm ngành có quy mô vốn rất lớn trên thị trường, với hàng chục ngân hàng đang niêm yết/đăng ký giao dịch.
Nhiều năm gần đây, ngành ngân hàng đã có sự thay đổi lớn và phát triển vượt bậc về tài sản và quy mô. Tuy nhiên, để không tái lập câu chuyện cũ, đồng thời mang đến hình ảnh mới, tham vọng mới cho sự phát triển thì các ngân hàng phải tiến tới tiêu chuẩn Basel 2.
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã tiến lên chuẩn Basel 3, nên việc áp dụng này là rất cấp thiết. Vậy nhưng, trong 10 ngân hàng được chọn thí điểm thực hiện Basel 2 với lộ trình áp dụng năm 2020 hiện mới chỉ có 2 ngân hàng hoàn thành.
Thực tế, để đáp ứng Basel 2, yêu cầu quan trọng là tăng vốn, nhưng nhiều ngân hàng chưa làm được. Huy động từ nhà đầu tư trong nước thiếu tính khả thi, nhất là trong bối cảnh ngân hàng có tỷ lệ sở hữu lớn của Nhà nước như hiện nay.
Ngân hàng buộc phải tìm đến vốn ngoại. Điểm tích cực là dòng vốn ngoại có xuất xứ từ Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore… đang có xu hướng gia tăng. Các tổ chức tài chính, ngân hàng lớn có mặt tại Việt Nam ngày một nhiều, với những cái tên như KEB Hana Bank, Mira Asset, KB, Yuanta… Trong bối cảnh thời điểm áp dụng Basel 2 đang cận kề, việc nới room cho lĩnh vực ngân hàng cần sớm được xem xét. Trung Quốc, một nền tài chính tương đồng với Việt Nam, đã nâng tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa đối với các ngân hàng và các công ty quản lý tài sản lên 51%.
Những nhà đầu tư mạo hiểm đã theo chân vào Việt Nam, nhất là nhà đầu tư Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc. Tại Thái Lan, một tổ chức đã lập quỹ ETF với mục tiêu thu hút khoảng 300 triệu USD nhằm mua chứng chỉ quỹ VFMVN30ETF đang niêm yết trên HOSE. Thống kê sơ bộ đến hết tháng 3/2019, có khoảng 1.700 tỷ đồng chảy vào chứng chỉ quỹ VFMVN30ETF. Các quỹ ETF khác là Vaneck ETF và FTSE ETF cũng thu hút được lượng tiền không nhỏ. Có thể nhận thấy xu hướng đón đầu cơ hội thị trường khá rõ của dòng tiền.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã bứt phá mạnh cuối năm 2017, đầu năm 2018, sau nhiều năm tích lũy. Do đó, khó có thể kỳ vọng ngay một con sóng lớn tiếp theo xuất hiện, mà nhiều khả năng có một nhịp tích lũy đủ dài, đủ lớn trong 1 – 2 năm. Sóng chung chưa xuất hiện, nhưng sóng riêng lẻ dự kiến sẽ không thiếu trong quá trình Việt Nam thực hiện những chính sách mới và vươn lên tầm cao mới. Cơ hội luôn hiện hữu, nhưng những ai có thể hưởng lợi được cần có một cái nhìn đủ dài, đủ tầm và tìm tòi nghiên cứu.
Nguyễn Hữu Bình, Chuyên gia chứng khoán
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Sửa Luật Chứng khoán: Hành trình 20 năm mở cửa đón vốn ngoại
Sau nhiều năm kiến nghị, nhà đầu tư ngoại đang đứng trước cơ hội được mở tung cánh cửa bước vào các công ty đại chúng theo đúng tinh thần các hiệp ước quốc tế mà Việt Nam đã và đang tham gia. Sửa đổi Luật Chứng khoán lần này được coi là một bước ngoặt lớn, dù đây đó vẫn còn nhiều tâm tư.
Sửa Luật Chứng khoán lần này được coi là bước ngoặt lớn đối với thị trường chứng khoán Việt Nam
Hành trình gần 20 năm mở cửa cho nhà đầu tư ngoại
Ngày 10/6/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 139/1999/QĐ-TTG về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam trên cơ sở Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Theo quyết định này, các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành, chứng chỉ quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán, trong đó, một tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa 7% và một cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 3%.
Đối với trái phiếu của một tổ chức phát hành, các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 40% tổng số trái phiếu đang lưu hành của 1 tổ chức, trong đó 1 pháp nhân nắm giữ tối đa 10%; 1 cá nhân nắm giữ tối đa 5%. Với công ty chứng khoán, mức nắm giữ tối đa của bên nước ngoài trong công ty chứng khoán liên doanh là 30%.
Đây là quy định về tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên áp dụng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhìn lại quy định này, các thành viên thị trường dễ dàng nhận thấy, "cái thủa ban đầu ấy", quy định về room rất chặt chẽ khi giới hạn không chỉ trần sở hữu của nhóm nhà đầu tư ngoại ở mức thấp, mà còn đồng thời giới hạn trần sở hữu với từng nhà đầu tư. Với quy định này, nhà đầu tư ngoại chỉ có một lựa chọn duy nhất là đầu tư tài chính trên thị trường chứng khoán ở quy mô rất nhỏ.
Ảnh Dũng Minh
Tuy nhiên, nếu nhìn quy định này ở thời điểm thị trường chứng khoán mới trong giai đoạn đi những bước đi đầu tiên, rất "khẽ" và nền kinh tế vẫn ở giai đoạn đầu của việc chuyển đổi, thì sự thận trọng là có thể hiểu được.
4 năm sau đó, tại Quyết định số 146/2003/QĐ-TTg ngày 17/7/2003 thay thế Quyết định 139 nói trên, tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài đã được thay đổi khá mạnh mẽ, với trần sở hữu 30% số cổ phiếu niêm yết của tổ chức phát hành, đồng thời bỏ giới hạn trần sở hữu cho 1 nhà đầu tư. Trần sở hữu của khối ngoại tại công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ được nâng lên 49% vốn điều lệ; không giới hạn về tỷ lệ sở hữu đối với trái phiếu.
Đến năm 2005, mức trần về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư ngoại trên thị trường chứng khoán đã có bước thay đổi căn bản tại Quyết định 238/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, trần sở hữu khối ngoại đối với công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ là 49% vốn điều lệ, công ty đại chúng niêm yết, đăng ký giao dịch là 49% số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch (trừ trường hợp một số ngành nghề đặc biệt) và không hạn chế đối với trái phiếu, trừ trường hợp các điều ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam ký kết có quy định khác.
Năm 2015, tức 10 năm sau khi Quyết định 238 được ban hành, Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 được ban hành, thiết lập một tư duy mới, một bước tiến mới trong câu chuyện về room. Nghị định 60 cũng quy định, với các công ty đại chúng mà ngành nghề không hạn chế, thì "tỷ lệ sở hữu nước ngoài là không hạn chế, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác".
Theo đó, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài; công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh mà pháp luật về đầu tư, pháp luật liên quan có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì thực hiện theo quy định tại pháp luật đó. Đối với công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài mà chưa có quy định cụ thể về sở hữu nước ngoài, thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa là 49%.
Với quy định tại Nghị định 60, doanh nghiệp được trao quyền "chọn" tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài trong phạm vi trần cho phép của ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp hoạt động.
Sửa Luật Chứng khoán: Giải đáp kiến nghị 14 năm của khối ngoại
Vào thời điểm năm 2005, Quyết định 238/2005/QĐ-TTg là một bước tiến dài, mở đường cho các nhà đầu tư ngoại tham gia mạnh mẽ vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Năm 2017, thị trường chứng khoán đã chứng kiến dòng vốn ngoại chảy vào kỷ lục, với giá trị mua ròng đạt 46.700 tỷ đồng, giá trị danh mục đầu tư cũng cao nhất từ trước đến nay, đạt khoảng 32 tỷ USD.
Tuy nhiên, những chuyển mình của Việt Nam dường như vẫn chưa đủ với các nhà đầu tư ngoại. Tại các cuộc gặp chính thức và phi chính thức với cơ quan quản lý Việt Nam, các nhà đầu tư ngoại, các nhà quản lý danh mục cho rằng, họ cần nhiều hơn thế. Nhu cầu trên đưa ra trong bối cảnh hiện trạng thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn là một bài toán khó, nếu muốn tăng cường kêu gọi dòng vốn quốc tế.
Theo đó, quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán hiện nay của Việt Nam đã lớn, thậm chí vượt so với mặt bằng chung một số nước trong khu vực, một số nước đã nằm trong danh sách thị trường mới nổi theo xếp hạng của MSCI, nhưng số lượng doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn hoặc đáp ứng được khẩu vị của nhà đầu tư ngoại sẵn sàng giải ngân lại không nhiều, xét ở tiêu chí trần tỷ lệ sở hữu và quy mô vốn hóa, ngành nghề yêu thích và các vấn đề khác (như công bố thông tin, chất lượng quản trị...).
Và vì thế, trong gần 20 năm Việt Nam mở cửa thị trường chứng khoán, 13 năm kể từ khi có Quyết định 238, nhà đầu tư ngoại vẫn liên tục kiến nghị nhiều biện pháp mở cửa rộng hơn nữa, tạo thêm nhiều không gian hơn nữa, bao gồm tiếp tục nâng trần sở hữu, phát triển các sản phẩm thay thế khác (như chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết - NVDR...).
Luật Chứng khoán sửa đổi dự kiến trình Quốc hội xem xét và thông qua năm 2019 được kỳ vọng sẽ là một lời giải đáp về mặt chính sách cho nhu cầu của nhà đầu tư ngoại tại Việt Nam. Bước tiến lớn nhất của dự án Luật Chứng khoán là nâng sở hữu lên 100% trừ khi ngành nghề đặc thù có quy định riêng và... không còn điều khoản phụ thuộc vào Điều lệ doanh nghiệp.
Thực tế diễn biến thị trường chứng khoán nhiều năm qua cho thấy, không phải trong mọi trường hợp, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư ngoại đều tốt đẹp. Thế nhưng, đã có không ít doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn nhờ một phần từ sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp, Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE), Công ty cổ phần Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP. HCM (CII), Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI), Tập đoàn Bảo Việt (BVH), Tập đoàn FPT (FPT), Công ty cổ phần Dược Hậu Giang (DHG)...
Ở góc nhìn tích cực, việc mở ra một khung pháp lý thông thoáng giúp doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn cơ hội huy động vốn ngoại và đón nhận thêm những nguồn lực mới (tri thức, thị trường...) cho khát vọng vươn lên.
Tuy nhiên, mở đến 100% hay nên dành một không gian cho doanh nghiệp quyết định sẽ còn là câu chuyện được cân nhắc, nhưng tinh thần của dự luật hiện tại đang cho thấy một sự thông thoáng mới từ cơ quan soạn thảo (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước), đó là tạo cơ chế đối xử bình đẳng như nhau trong tiếp cận cơ hội đầu tư cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Dư luận đang dõi theo động thái của các nhà làm luật và phản biện luật trước ý tưởng mới về rộng cửa hơn cho vốn ngoại vào doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, như Báo Đầu tư Chứng khoán đã chia sẻ trong các bài viết trước, ở vị thế doanh nghiệp, điều tâm tư bấy lâu là quy định về tư cách pháp lý khi nới room.
Cụ thể, theo Luật Đầu tư, nếu tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư ngoại từ 51% trở lên thì doanh nghiệp sẽ bị xem như là công ty nước ngoài và phải đáp ứng điều kiện và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp, đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nếu tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư ngoại đạt từ 51% vốn điều lệ, doanh nghiệp còn chịu sự ràng buộc về các khoản mục đầu tư, ví dụ, có thể doanh nghiệp đang đầu tư vào những ngành nghề chưa cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia (như phân phối dược phẩm). Vướng mắc này không thể giải quyết được tại dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi.
Đây là lý do khiến nhiều doanh nghiệp niêm yết không muốn mở room cho nhà đầu tư nước ngoài theo Nghị định 60 hiện hành. Dự luật mới buộc doanh nghiệp phải nới room lên 100% (trừ những doanh nghiệp thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện) có thể giải đáp các kiến nghị nhiều năm của nhà đầu tư, nhưng việc này sẽ mang lại điểm lợi và bất lợi gì cho các doanh nghiệp Việt? Đây là điểm rất cần có lời giải đáp cho nền tảng pháp lý mới về room được trọn vẹn hơn.
Bùi Sưởng
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Tranh thủ nhà đầu tư trong nước xả hàng, khối ngoại mua vào mạnh trong phiên lao dốc 21/3 Trong khi nhà đầu tư trong nước ồ ạt bán ra, đẩy cả 2 chỉ số chính lao dốc trong phiên hôm nay (21/3), thì nhà đầu tư nước ngoài lại tranh thủ gom vào với giá trị mua ròng hơn gấp đôi phiên trước. Ảnh Shutterstock Trên sàn HOSE, khối ngoại mua vào với khối lượng 14,93 triệu đơn vị, giá trị...