Thay đổi lối sống để phòng ung thư vú
Cho con bú, giảm uống rượu, cân nhắc sử dụng nội tiết tố thay thế trong giai đoạn mãn kinh có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ.
Ảnh: Afamily.
Theo thạc sĩ, bác sĩ Lê Thanh Phong, phân khoa Phẫu thuật lồng ngực – Mạch máu, Bệnh viện ĐH Y Dược TP HCM, bệnh ung thư vú ở phụ nữ có thể phòng ngừa bằng những cách sau:
1. Thay đổi lối sống: Cho con bú có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú. Bên cạnh đó nên giảm uống rượu, cân nhắc sử dụng nội tiết tố thay thế trong giai đoạn mãn kinh, thay đổi chế độ ăn, kiểm soát trọng lượng cơ thể bằng chế độ ăn và tập luyện thể dục.
2. Sử dụng thuốc: Tamoxifen đã được chấp thuận để dự phòng ung thư vú cho những bệnh nhân có nguy cơ cao. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc này cần cân nhắc giữa hiệu quả ngăn ngừa ung thư và tác dụng phụ đó là nguy cơ ung thư nội mạc tử cung và huyết khối tĩnh mạch.
3. Đối với những người có tiền sử gia đình bị ung thư vú cần được tư vấn để xác định đột biến gene có liên quan đến bệnh này.
4. Những người thuộc nhóm có nguy cơ đặc biệt cao về ung thư vú, ví dụ đột biến gene BRCA1, BRCA2 có thể dự phòng bằng cách dùng thuốc kháng nội tiết tố. Bên cạnh đó, phẫu thuật đoạn nhũ 2 bên cũngcho hiệu quả dự phòng lên đến 92-95%. Phẫu thuật cắt buồng trứng 2 bên dự phòng giúp giảm nguy cơ ung thư vú và cả ung thư buồng trứng trên nhóm này.
5. Đối với những người có đột biến gene nhưng không muốn phẫu thuật cần được theo dõi sát ở những trung tâm chuyên khoa để phát hiện sớm ung thư vú.
6. Phụ nữ trên 50 tuổi nên khám tuyến vú định kỳ mỗi năm một lần và chụp nhũ ảnh kiểm tra mỗi 2 năm để phát hiện ung thư vú ở giai đoạn sớm.
7. Tự khám tuyến vú hàng tháng ở nửa sau của chu kỳ kinh nguyệt để phát hiện các khối u của tuyến vú hay những bất thường khác. Việc phát hiện bệnh ung thư sớm sẽ cho hiệu quả điều trịcao và ít biến chứng hơn.
Cách chăm sóc và theo dõi bệnh nhân sau khi điều trị ung thư vú:
Người bị ung thư vú đã điều trị xong vẫn phải đối mặt với nguy cơ tái phát. Do đó sau khi đã hoàn tất, bệnh nhân cần được theo dõi định kỳ để phát hiện tái phát tại chỗ có thể điều trị được. Việc theo dõi còn giúp phát hiện ung thư vú thứ phát và điều trị các vấn đề liên quan đến tác dụng phụ của thuốc.
Nguy cơ tái phát ung thư vú cao nhất trong khoảng thời gian 3 năm đầu, sau đó giảm dần. Hầu hết trường hợp tái phát xảy ra trong 5 năm đầu tiên, vì lý do đó bệnh nhân ung thư vú nên được theo dõi chuyên khoa định kỳ trong 5 năm sau khi đã hoàn thành việc điều trị.
Theo khuyến cáo, bệnh nhân sau khi điều trị ung thư vú nên được theo dõi như sau:
Video đang HOT
- Hỏi bệnh và khám lâm sàng mỗi 4-6 tháng trong 5 năm đầu. Sau đó tái khám hằng năm.
- Chụp nhũ ảnh mỗi năm một lần.
- Với bệnh nhân điều trị bằng thuốc nội tiết tố nên khám phụ khoa mỗi năm hoặc đo độ loãng xương để phát hiện bất thường nếu có.
Thi Trân
Theo VNE
Độ tuổi phụ nữ ung thư vú ngày càng trẻ
Ở Việt Nam mỗi năm có thêm 12.000 ca mới mắc bệnh ung thư vú. Tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng và trẻ hoá.
Theo thạc sĩ, bác sĩ Lê Thanh Phong, phân khoa Phẫu thuật lồng ngực - Mạch máu, Bệnh viện ĐH Y Dược TP HCM, ung thư vú là bệnh lý ung thư hàng đầu ở nữ giới. Hằng năm trên thế giới có thêm trên một triệu phụ nữ mắc bệnh này. Ở Việt Nam, theo thống kê, mỗi năm có 12.000 ca mới, tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng và trẻ hoá.
Ảnh minh họa: News.
Các yếu tố nguy cơ ung thư vú:
- Nữ giới mắc ung thư vú cao hơn 100 lần so với nam.
- Tần suất mắc bệnh gia tăng theo tuổi.
- Một số nghiên cứu cho thấy nhóm phụ nữ có đời sống kinh tế xã hội cao thì nguy cơ ung thư vú cao gấp đôi so với phụ nữ có mức sống thấp.
- Vị trí địa lý: Phụ nữ ở Bắc Mỹ hay châu Âu có tần suất mắc bệnh cao hơn ở châu Á.
Các yếu tố di truyền:
- Chủng tộc: Theo thống kê, có một số chủng tộc đối mặt với nguy cơ ung thư vú cao hơn chủng tộc khác.
- Tiền sử gia đình: Trong gia đình có người thân mắc bệnh thì nguy cơ di truyền càng cao.
- Đột biến gene: Nếu bệnh nhân có đột biến gen BRCA1, BRCA2 sẽ có nguy cơ bị ung thư vú đến 70-80% trong cuộc đời.
Những yếu tố về kinh nguyệt và sinh sản:
- Thời điểm có kinh: Có kinh nguyệt lần đầu càng trễ sẽ làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú.
- Thời điểm mất kinh: Mãn kinh càng muộn, nguy cơ bệnh càng tăng.
- Mang thai: Số lần mang thai và tuổi lúc sinh con đầu tiên có thể ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú. Cho con bú làm giảm nguy cơ này.
- Mức nội tiết tố trong cơ thể: Sử dụng thuốc nội tiết tố trong giai đoạn mãn kinh làm tăng khả năng bị ung thư vú.
Lối sống:
- Béo phì có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú.
- Tập thể dục có thể làm giảm nguy cơ.
- Thức ăn: Chế độ ăn ít chất béo có thể làm giảm nguy cơ bệnh.
- Tiền sử bệnh: Một người từng bị ung thư vú thì nguy cơ bị mắc lần thứ hai khoảng 1%/ năm ở những người chưa mãn kinh và 0,5% ở những người mãn kinh.
- Những yếu tố nguy cơ khác như: Hút thuốc lá, tiếp xúc với tia X khi còn nhỏ làm tăng khả năng mắc bệnh.
Các dấu hiệu nhận biết ung thư vú:
- Sờ được khối u ở tuyến vú.
- Chảy dịch núm vú.
- Chàm ở quầng vú và núm vú.
- Trong giai đoạn muộn, vùng da của tuyến vú có thể thay đổi trở nên sần sùi như da cam, núm vú bị kéo lệch, sờ được hạch nách...
Các phương pháp điều trị:
Điều trị ung thư vú cần phải phối hợp nhiều phương pháp để có một kết quả tốt nhất gồm phẫu thuật, hoá trị, chiếu tia, điều trị nội tiết tố, liệu pháp ngắm trúng đích.
Bệnh ung thư vú đặt người phụ nữ vào tình thế phải đương đầu với cả sự đau đớn về thể xác và thử thách to lớn về tinh thần trước việc mất một phần cơ thể cũng như sự gợi cảm. Ngày nay, việc điều trị ung thư vú không chỉ giúp chị em lành bệnh mà còn phải giúp họ được giữ được vẻ đẹp và sự gợi cảm của tuyến vú.
Trước đây điều trị ung thư vú bằng phẫu thuật bao gồm cắt toàn bộ tuyến vú, cắt cơ ngực lớn và nạo toàn bộ các nhóm hạch nách. Sau đó phẫu thuật đoạn nhũ có cải tiến là chừa lại không cắt ngực nhưng cũng cắt toàn bộ tuyến vú và nạo một phần hạch nách.
Kể từ thập niên 80, phương pháp điều trị phẫu thuật bảo tồn tuyến vú (cắt một phần tuyến vú chứa khối u hay cắt tuyến vú bán phần) kết hợp với xạ trị được áp dụng rộng rãi cho những trường hợp ung thư có kích thước nhỏ. Phương pháp này cho tỷ lệ sống tương đương với phẫu thuật cắt tuyến vú toàn bộ.
Kể từ thập niên 90, phương pháp sinh thiết hạch canh gác được thay thế nạo hạch thường quý, nghĩa là, đầu tiên bác sĩ chỉ lấy vài hạch nhỏ ở nách qua một đường rạch nhỏ để xét nghiệm. Nếu có tế bào ung thư di căn thì sẽ nạo hạch, còn nếu không có tế bào ung thư di căn thì sẽ không nạo hạch. Phương pháp này giúp làm giảm các biến chứng của nạo hạch và ít gây tàn phế.
Đối với những người ung thư vú giai đoạn trễ, những bệnh nhân có khối u nhỏ nhưng không muốn điều trị với tia xạ trị, những người có nguy cơ tái phát ung thư cao như đột biến gene thì phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú vẫn là phương pháp phù hợp nhất. Tuy nhiên trong trường hợp này, bác sĩ có thể tạo hình lại tuyến vú cho bệnh nhân với hình dạng gần như bình thường.
Hiện nay có nhiều phương pháp tạo hình tuyến vú như sử dụng túi nước hay silicon, sử dụng mô tự thân, sử dụng tế bào mỡ tự thân... Theo các chuyên gia, tạo hình tuyến vú bằng vạt cơ lưng rộng và kỹ thuật bơm tế bào mỡ chiết xuất là phương pháp phù hợp nhất đối với phụ nữ Việt Nam, có thể tái tạo một tuyến vú gần như bình thường.
Thi Trân
Theo VNE
Khoảng 14.000 phụ nữ Việt mắc ung thư vú mỗi năm Phó giáo sư Trần Văn Thuấn - Phó giám đốc Bệnh viện K, Viện trưởng Viện nghiên cứu phòng chống ung thư cho biết, ung thư vú là bệnh phổ biến hàng đầu đối với phụ nữ ở Việt Nam, mỗi năm có khoảng 14.000 phụ nữ mắc ung thư vú. Hiện nay, ung thư vú là bệnh phổ biến hàng đầu đối...