Thành phố hiếm hoi thoát đại dịch ‘Cái chết đen’ trong lịch sử
Nằm giữa hai khu vực bị dịch hạch càn quét, Ferrara (Italy) vẫn ngăn chặn bệnh hiệu quả. Các biện pháp chống dịch từ thời đó đến nay vẫn được thế giới áp dụng để chống SARS-CoV-2.
Năm 1347, khi dịch hạch lần đầu gieo rắc nỗi khiếp sợ ở những khu vực lân cận, Italy bắt đầu thực hiện các biện pháp y tế chủ động để cách ly bệnh nhân, người nghi nhiễm, hạn chế đi lại giữa những vùng dịch.
Từ năm 1629 đến 1631, dịch hạch tàn phá hầu hết thành phố lớn và thị trấn ở miền Bắc, miền Trung Italy. Hơn 45.000 người tại Venice tử vong. Một nửa dân số của các thành phố như Parma, Veroca bị “quét sạch”. Chỉ có Ferrara ở miền Bắc Italy thoát khỏi “nanh vuốt” của “ Cái chết đen”.
Theo History, đây là nơi gần như không chịu tổn thất vì dịch hạch và cũng không có ca tử vong nào vì đại dịch này.
Giáo sư sử học John Henderson của Đại học London (Anh), đồng tác giả cuốn sách Florence Under Siege: Surviving Plague in an Early Modern City đã lý giải câu chuyện chống dịch thành công của Ferrara với 3 cách làm dưới đây.
“Cái chết đen” xâm chiếm và tàn phá Milan năm 1630. Nguồn: Getty.
Tự cách ly thành phố
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Đại học Ferrara (Italy), dựa trên tài liệu lưu trữ của thành phố, cùng bản thảo lịch sử, đã khám phá cách quản lý dịch bệnh của thành phố này khi “Cái chết đen” tấn công Italy năm 1629-1631.
Nhóm tác giả tin rằng thành công trong công tác chống dịch của Ferrara nằm ở sự kết hợp giữa giám sát người ra vào nghiêm ngặt, vệ sinh công cộng tốt và kiểm soát vệ sinh của từng cá nhân.
Trong 3 thế kỷ, kể từ khi dịch hạch “ghé thăm” Italy lần đầu tiên, các thành phố đông dân tại đây thường xuyên phải đối mặt đại dịch không dứt.
Ferrara thuộc vùng Émilie-Romagne, miền Bắc Italy khi đó, có khoảng 30.000 người. Thành phố này nằm dọc nhánh sông Po, nơi giáp ranh Padua và Bologna – hai khu vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch hạch năm 1630. Nằm giữa hai vùng dịch, Ferrara sớm tìm ra cách chặn đứng mầm bệnh bên ngoài thành phố.
Khi dịch bệnh ở mức đe dọa cao nhất, toàn bộ cánh cửa ra, vào bên ngoài đều bị đóng kín, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chỉ những quý tộc giàu có, quan chức thành phố và bác sĩ mới được ra vào thành phố.
Thêm vào đó, người muốn đến cổng thành phải mang theo giấy tờ tùy thân, có dấu chứng minh không đến từ vùng dịch. Mọi người đều được theo dõi dấu hiệu bất thường về sức khỏe.
Cách làm của Ferrara gợi nhớ đến lệnh cách ly mà thành phố cảng Ragusa bên bờ biển Adriatic (nay là Dubrovnik của Croatia) áp dụng năm 1377. Đây cũng là nơi đầu tiên trên thế giới ra luật cách ly tất cả người dân trở về từ vùng dịch để ngăn chặn dịch hạch lây lan.
Tăng cường khử trùng, vệ sinh công cộng
Bất kỳ cá nhân nào bị nghi ngờ mắc dịch hạch đều sẽ bị đưa tới một trong hai bệnh viện cách ly ở bên ngoài bức tường thành phố Ferrara. Cả hai bệnh viện đều do nhà nước chi trả, có cơ sở vật chất tốt tương đương bệnh viện ở Florence, nơi đã chữa trị cho hơn 10.000 bệnh nhân của đại dịch “cái chết đen”.
Saint Vincent de Paul chăm sóc nạn nhân bệnh dịch hạch năm 1630. Nguồn: Getty.
Năm 1546, bác sĩ người Italy, Girolamo Fracastoro đưa ra lý thuyết về “hạt giống của bệnh tật”. Ông hình dung cách lây truyền của dịch hạch là từ người sang người. Những “hạt giống bệnh tật” đó có thể dính, bám vào quần áo, đồ vật.
Chính từ giả thuyết này mà giới chức Ferrara khi đó liên tục đẩy mạnh các chiến dịch vệ sinh công cộng tại thành phố.
Đường phố được quét dọn thường xuyên. Những con thú, vật nuôi như chó, mèo, gà không còn xuất hiện nơi công cộng. Khắp các ngõ ngách, đội quân y tế rải bột vôi và rắc nó lên bất kỳ người nào nghi nhiễm bệnh hoặc nghi từng tiếp xúc người bệnh.
Trong nhà, cư dân cũng được lệnh khử trùng đồ vật. Mọi đồ đạc bị hư hỏng đều bị đem đi đốt cháy, nhằm tiêu diệt virus. Những đồ vật và tiền có giá trị được hơ trên đống lửa. Kèm theo đó, mọi ngõ ngách trong nhà đều được xịt nước hoa trong vòng 15 ngày. Quần áo bắt buộc phải phơi dưới ánh nắng mặt trời, đập và nhúng trong nước hoa.
Những cư dân Ferrara thời đó tin rằng đây là cách hữu hiệu để đẩy lùi virus, tiêu diệt con đường lây lan của nó.
Ngày nay, các quốc gia trên thế giới vẫn duy trì nguyên tắc khử khuẩn thành phố, nơi công cộng để tiêu diệt nguy cơ lây lan của virus SARS-CoV-2. Nó chứng tỏ hiệu quả mà cách làm này mang lại cho cộng đồng.
Video đang HOT
Bức tranh miêu tả đại dịch trong bảo tàng Storico Nazionale Dell’Arte Sanitaria tại Rome (Italy). Nguồn: Getty.
Giữ vệ sinh cá nhân
Để giữ vệ sinh cá nhân, cư dân Ferrara sử dụng các biện pháp tự nhiên được khuyến cáo giúp ngăn ngừa lây nhiễm. Trong số đó, họ đánh giá cao loại dược liệu có tên gọi Composito.
Theo History, dược liệu này được cất giữ trong bức tường của cung điện thành phố và chỉ được sử dụng khi có dịch bệnh. Công thức bí mật của Composito do bác sĩ Tây Ban Nha Pedro Castagno pha chế. Ông còn miêu tả cách sử dụng loại dược liệu này là bôi trực tiếp lên cơ thể để chống dịch hạch.
Tài liệu ghi chép lại của Pedro hướng dẫn cách sử dụng như sau: Buổi sáng khi vừa thức dậy, cư dân Ferrara hơ nóng quần áo trên ngọn lửa thắp từ cây gỗ thơm (gồm bách xù, nguyệt quế và nho).
Sau đó, họ chà dầu Composito vào cơ thể, từ vùng tim tới cổ họng. Người dân được khuyên nên thực hiện động tác này dưới lửa nóng để tăng hiệu quả của dược liệu. Cuối cùng, người dân rửa tay, mặt với nước sạch trộn cùng rượu hoặc giấm hoa hồng.
Hướng dẫn rất chi tiết cách sử dụng Composito nhưng Castagno không tiết lộ thành phần sử dụng để bào chế ra dược liệu này. Lần theo các hồ sơ, đơn mua hàng của vị bác sĩ người Tây Ban Nha, các nhà nghiên cứu xác định trong Composito có chứa myrrh (mộc dược) và Crocus sativus (nghệ tây). Cả hai đều được biết đến với công dụng kháng khuẩn. Ngoài ra, họ cho rằng nó còn có nọc độc của bọ cạp và rắn lục.
Trên thực tế, công thức của Composito không hề giống với bất kỳ phương thuốc nào được sử dụng để chống lại dịch hạch ở các vùng khác tại Italy cùng thời. Theo giáo sư Henderson, bác sĩ Perdo sử dụng độc tố từ bọ cạp và rắn lục như một cách “lấy độc trị độc”.
Đến nay, nhà khoa học chưa khẳng định cách làm này có hiệu quả trong phòng chống lây lan dịch hạch tại Ferrara. Tuy nhiên, nhìn vào lịch sử, có thể thấy, thành phố này đã làm tốt các quy tắc chống dịch mà ngay cả thế giới ngày nay cũng đang áp dụng để chống lại SARS-CoV-2. Đó là tăng cường kiểm dịch, phong tỏa thành phố, khử khuẩn nơi cư trú và giữ vệ sinh nơi công cộng.
Thiên Nhan
Đại dịch hạch đầu tiên mà loài người gánh chịu xảy ra vào triều vua nào?
Loài người phải đối mặt với nhiều đợt bùng phát dịch hạch trên diện rộng trong 2.000 năm qua, khiến gần 200 triệu người tử vong.
1. Loài người phải đối mặt với mấy đợt bùng phát dịch hạch trên diện rộng trong 2.000 năm qua?
A. Hai đợt
B. Ba đợt
Câu trả lời đúng là đáp án B: Loài người phải đối mặt 3 đợt bùng phát dịch hạch trên diện rộng trong 2.000 năm qua, khiến gần 200 triệu người tử vong.Đại dịch lần thứ nhất diễn ra vào thế kỷ 6. Đại dịch lần thứ hai (được gọi là Cái chết đen) quét qua châu Âu từ thế kỷ 14. Đại dịch lần thứ ba bắt đầu ở Trung Quốc trong thế kỷ 19 rồi lan sang các nước châu Á khác và Mỹ.
C. Bốn đợt
2. Đại dịch hạch đầu tiên mà loài người gánh chịu xảy ra có tên là gì?
A. Bệnh dịch hạch Justinian
Câu trả lời đúng là đáp án A: Đại dịch hạch đầu tiên gọi là Bệnh dịch hạch Justinian mà loài người gánh chịu xảy ra vào triều đại vua Justinian I (483 - 565 sau Công nguyên) cai trị Đế quốc Byzantine (còn gọi là Đông La Mã) bởi vi khuẩn dịch hạch (Yersinia pestis).
B. Bệnh dịch hạch Czar Peter II
3. Đại dịch hạch này giết chết bao nhiêu triệu người?
A. 50 triệu người
Câu trả lời đúng là đáp án A:Do điều kiện vệ sinh kém, dân trí thấp nên trận dịch này đã giết chết khoảng 50 triệu người khắp vùng Trung Á, Trung Đông, Bắc Phi, chiếm một nửa dân số thế giới khi ấy.Khi đại dịch diễn ra, xác con người và động vật rải rác khắp nơi, các hố chôn tập thể quá tải tới mức người ta phải đặt xác lên thuyền rồi cho trôi ra đại dương.
Người nhiễm bệnh khi ấy có thể được nhân viên y tế chữa trị hoặc thực hiện các biện pháp khắc phục tại nhà bằng cách tắm nước lạnh, dùng bột phấn để bôi và nhiều loại thuốc chứa alkaloid có dược tính mạnh.Tuy nhiên, đại dịch kết thúc cũng là khi đế chế Byzantine suy yếu, các nền văn minh khác được đà đã tái chiếm vùng đất Byzantine và đế quốc này không bao giờ có thể vực dậy được nữa.
B. 60 triệu người
C. 70 triệu người
4. Đại dịch này lây lan qua sinh vật nào sau đây?
A. Chuột
B. Muỗi
C. Bọ chét
Câu trả lời đúng là đáp án C: Thời Trung cổ, nhiều người nghĩ rằng, dịch hạch là do Thượng đế gửi tới để trừng phạt tội lỗi của họ. Đến thế kỷ 20, các nhà khoa học chắc chắn rằng, cả ba lần đại dịch đều do vi khuẩn Yersinia pestis có trong bọ chét và các loài động vật có vú cỡ nhỏ gây ra.
5. Thời gian để một người mắc bệnh dịch hạch nếu không được điều trị sẽ tử vong sau bao lâu?
A. Một tuần
B. Một tháng
C. Hai tháng đến nửa năm
Câu trả lời đúng là đáp án A: Một khi đã bị nhiễm vi khuẩn "cái chết đen", bệnh nhân được ước tính chỉ có thể sống sót trong vòng 60-180 ngày. Vào thời điểm những năm 1400 khi chưa phát minh ra kháng sinh, người mắc bệnh sẽ đồng nghĩa với cái chết.
6. Bệnh đậu mùa ở thế kỷ 17 diễn ra trong cuộc xâm chiếm nào?
A. Thực dân châu Âu xâm chiếm châu Mỹ
Câu trả lời đúng là đáp án A: Thực dân châu Âu xâm chiếm châu Mỹ vào thế kỷ 17 và mang theo cả bệnh đậu mùa (do virus variola gây ra) tới lục địa này. Bệnh đậu mùa đã cướp đi sinh mạng của khoảng 20 triệu người, gần 90% dân số ở châu Mỹ khi đó.
Bệnh dịch cũng khiến nhiều vị vua trị vì châu Âu tử vong, bao gồm Hoàng đế Habsburg Joseph I, Nữ hoàng Mary II của Anh, Czar Peter II của Nga và Vua Louis XV của Pháp.Đại dịch đã giúp người châu Âu dễ dàng xâm chiếm và phát triển các khu vực mới bỏ trống, thay đổi mãi mãi lịch sử của châu Mỹ và nền kinh tế toàn cầu. Các cuộc khai thác khoáng sản quy mô lớn khi đó là một bước ngoặt quan trọng trong sự hình thành của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Năm 1796, bác sĩ người Anh Edward Jenner khám phá ra rằng con người có thể miễn nhiễm với đậu mùa sau khi chúng ta tiêm vào cơ thể một loại virus tương tự variola nhưng ít gây hại hơn. Các thí nghiệm của Jenner như lấy mủ từ bệnh nhân mắc bệnh nhẹ và đưa chúng vào da hoặc mũi của những người khỏe mạnh. Kết quả cho thấy những người chưa bị bệnh sẽ chỉ bị nhiễm trùng nhẹ và phát triển khả năng miễn dịch với các đợt bùng phát mới.
Tuy vẫn có người chết nhưng con số dần giảm mạnh.Đây cũng chính là sự kiện dẫn đến sự ra đời của những liều vaccine (vắcxin) đầu tiên trên thế giới. Sau đó, nhiều quốc gia thực hành tiêm chủng để phòng đậu mùa. Năm 1980, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố đậu mùa đã bị xóa sổ trên toàn thế giới. Cho đến nay đậu mùa vẫn là căn bệnh duy nhất mà con người xóa sổ được trên phạm vi toàn cầu.
B. Thực dân châu Âu xâm chiếm châu Phi
7. Đại dịch tả đầu tiên bắt đầu ở đất nước nào?
A. Nam Phi
B. Ấn Độ
Câu trả lời đúng là đáp án B: Đại dịch tả đầu tiên bắt đầu ở Jessore, Ấn Độ (1817-1823) và giết chết hàng triệu người dân Ấn Độ khi ấy. Sau đó, dịch tả bùng phát thêm nhiều đợt mới lan nhanh khắp các châu lục trong thời gian ngắn.Mãi tới năm 1854, khi đại dịch đã lan rộng ở châu Âu, bác sĩ người Anh khi đó là John Snow tìm ra nguồn lây và đã ngăn chặn sự bùng phát vào bằng cách ngăn người dân sử dụng nguồn nước máy ô nhiễm.
Dịch tả tại Anh nhanh chóng kết thúc trong vài ngày sau đó.Tổ chức Y tế Thế giới gọi dịch tả là "đại dịch bị lãng quên" vì nó kết thúc rồi lại bùng phát. Kể từ trận dịch đầu tiên năm 1897, đến nay thế giới đã trải qua 7 trận dịch mới. Đợt bùng phát thứ 7, bắt đầu vào năm 1961 và kéo dài cho đến ngày nay.
Dịch tả lây nhiễm 1,3-4 triệu người mỗi năm, tỉ lệ tử vong hàng năm từ 21.000-143.000.Vì dịch tả gây ra do ăn phải thức ăn hoặc uống nước bị nhiễm một loại vi khuẩn nhất định nên nó có ảnh hưởng rất lớn đến các quốc gia có nên kinh tế yếu kém, trình độ dân trí thấp, điều kiện vệ sinh và hệ thống y tế kém. Trong khi đó, các nước giàu có hơn gần như không lo lắng về bệnh dịch.
C. Ai Cập
8. Ổ dịch SARS (2002 - 2003) đầu tiên được phát hiện ở đâu?
A. Quảng Tây
B. Hồng Kong
C. Quảng Đông
Câu trả lời đúng là đáp án C: SARS hay hội chứng hô hấp cấp tính nặng, là một căn bệnh gây ra bởi một trong 7 loại coronavirus có thể lây nhiễm sang người là: 229E (alpha coronavirus), NL63 (alpha coronavirus), OC43 (beta coronavirus), HKU1 (beta coronavirus), MERS-CoV (beta coronavirus), SARS-CoV (beta coronavirus), SARS-CoV-2 (COVID-19).Ổ dịch đầu tiên được phát hiện ở Quảng Đông (Trung Quốc) vào năm 2003 và trở thành đại dịch toàn cầu khi nhanh chóng lan rộng ra tổng cộng 26 quốc gia.
Dịch SARS lây nhiễm hơn 8.000 người và giết chết 774 người trên toàn thế giới.Đại dịch kết thúc nhanh chóng, tỉ lệ tử vong thấp một phần nhờ hiệu quả của việc phản ứng nhanh, hành động quyết liệt của chính phủ các nước, bao gồm kiểm dịch các khu vực bị ảnh hưởng và cách ly các cá nhân bị nhiễm bệnh.
Sự bùng phát của dịch SARS cũng làm tăng nhận thức về việc ngăn chặn sự lây truyền bệnh do virus, đặc biệt là ở Hong Kong. Người dân có ý thức phòng bệnh hơn, các bề mặt nơi công cộng thường xuyên được vệ sinh sạch sẽ hơn và "sạch sẽ" trở thành yếu tố nhất định phải có trong mọi môi trường sống của người dân Hong Kong ngày nay.
9. Dịch Ebola (2014 - 2016) được đặt tên theo?
A. Một thành phố nơi bùng phát bệnh
B. Người mắc bệnh đầu tiên
C. Một dòng sông
Câu trả lời đúng là đáp án C: Virus Ebola được đặt tên theo một dòng sông gần với nơi bùng phát đầu tiên. Mặc dù dịch Ebola không lây nhiễm trên quy mô toàn cầu nhưng lại được đánh giá là cực kỳ nguy hiểm.
Nó bắt đầu ở một ngôi làng nhỏ ở Guinea vào năm 2014 và lan sang một số nước láng giềng ở Tây Phi trong vài tháng. Bệnh lây truyền thông qua tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết cơ thể như tinh dịch, sữa mẹ, mồ hôi, nước mắt hoặc chất bài tiết, chất thải của người mắc bệnh Ebola.Tháng 8-2014, WHO chính thức ban bố dịch Ebola là "trường hợp khẩn cấp y tế công cộng cần được quốc tế quan tâm".Bằng hàng loạt biện pháp cách ly, phòng ngừa, nâng cao ý thức phòng dịch trong cộng đồng và hoạt động cứu trợ y tế từ các tổ chức khác nhau, đến năm 2016, dịch bệnh được đẩy lùi.
Tuy nhiên, Ebola cũng đã giết chết 11.325 trong số 28.600 người nhiễm bệnh, hầu hết các trường hợp là ở Guinea, Liberia và Sierra Leone.Giống như "đại dịch bị lãng quên", Ebola gây ảnh hưởng nặng tại các quốc gia có điều kiện kinh tế và y tế lạc hậu. Người dân không đủ kiến thức và cách thức để tránh dịch.
Số câu trả lời đúng
Đỗ Hợp (T/H)
Đại dịch khủng khiếp nào đoạt mạng nhiều người nhất lịch sử? Cái chết Đen được xem là một trong những đại dịch gây tử vong nhiều nhất lịch sử nhân loại. Nguyên do là bởi đại dịch nguy hiểm này đoạt mạng 1/3 dân số châu Âu hồi thế kỷ 14. Trong lịch sử, nhiều đại dịch nguy hiểm lây lan sang nhiều nước với số ca nhiễm bệnh ngày càng nhiều và tỷ...