Thận trọng khi sử dụng thuốc bôi ngoài da
Cần lưu ý, thuốc dùng ngoài da chỉ đạt hiệu quả, phát huy tác dụng nếu chúng ta biết cách sử dụng đúng, còn nếu không thì lại gây hậu quả ngược lại.
Hiện nay trên thị trường, thuốc bôi, thuốc dùng ngoài da cũng có rất nhiều loại của nhiều công ty dược phẩm trong nước cũng như nước ngoài. Người dân cũng có thể dễ dàng tự mua thuốc dùng từ bất kỳ nhà thuốc nào. Đây chính là điều thuận lợi cho việc dùng thuốc bừa bãi, làm gia tăng tình trạng “ trơ thuốc”, kháng thuốc và các phản ứng có hại của thuốc.
Các loại thuốc dùng trong da liễu
Thuốc dùng ngoài da thường gồm 2 thành phần chính là hoạt chất có tác dụng điều trị và tá dược có tác dụng vận chuyển hoạt chất, đưa hoạt chất thấm qua da. Người ta có thể chia ra một số dạng thuốc ngoài da chủ yếu như sau:
Thuốc dạng dung dịch (lotions): Là thuốc dạng lỏng, hoạt chất được pha trong tá dược thường là các dung môi lỏng thành một chất lỏng đồng đều, không vón, không kết tủa. Thuốc dạng dung dịch thường có tác dụng trên bề mặt nông, tác dụng nhanh, làm khô da, dịu da, chống viêm, giảm phù nề, giảm xung huyết, thường điều trị các tổn thương da trong giai đoạn cấp tính, chảy nước.
Ví dụ: dung dịch jarish làm khô, dịu tổn thương ướt; dung dịch milian để làm khô và diệt khuẩn… Lưu ý không dùng dạng thuốc này cho các tổn thương da khô, dày da, mạn tính vì không hiệu quả. Có những loại thuốc chỉ dùng riêng cho tổn thương da, có loại thì dùng cho niêm mạc, móng… do vậy cần sử dụng đúng mới đạt hiệu quả mong muốn.
Thuốc dạng bột (powder): Thuốc dạng bột sử dụng tá dược chủ yếu là bột thảo mộc hoặc bột khoáng chất, ví dụ: bột than, bột talc, bột kaolin… thuốc dạng bột có tác dụng làm mát da, giảm viêm, hút nước làm khô da, chống xung huyết. Thuốc bột thường dùng cho các tổn thương da viêm tấy, cấp tính, đang chảy nước.
Thuốc mỡ (ointment): Là dạng thuốc dùng ngoài da phổ biến nhất. Tá dược là vaselin, lanolin, tỷ lệ bột hoạt chất nhỏ hơn 30% trong thành phần. Thuốc mỡ làm cho thuốc hoạt chất ngấm sâu hơn vào da, làm mềm da nhưng lại gây bít da, hạn chế bài tiết qua da…
Thuốc dạng hồ (pates): Dạng thuốc có hoạt chất dạng bột chiếm tỷ lệ từ 30 – 50% thành phần. Tá dược là vaselin, lanolin. Thuốc hồ có tác dụng giảm viêm, giảm xung huyết, làm khô da và không hạn chế sự bài tiết ở da như thuốc mỡ. Thường dùng dạng thuốc này cho các tổn thương bán cấp.
Thuốc dạng kem (cream): Là loại thuốc mỡ có thêm glycerin và nước, độ ngấm thuốc vào da vừa phải. Thuốc dạng kem có tác dụng mát da, bảo vệ da, thường dùng giai đoạn tổn thương bán cấp. Ngoài ra còn một số dạng thuốc bôi ngoài da khác như: thuốc dạng dầu, thuốc để ngâm tắm, thuốc để đắp, tẩm… cũng thường được dùng trong da liễu.
Video đang HOT
Cần thận trọng với các thuốc mỡ chứa corticoid.
Một số vấn đề cần lưu ý khi sử dụng thuốc bôi
Ngoài các lưu ý với từng loại thuốc bôi ở trên, cần phải lưu ý một số điểm sau:
- Thuốc bôi dùng ngoài da phải phù hợp không những với bệnh mà còn phải phù hợp với vị trí tổn thương, tuổi, giới, nghề nghiệp của bệnh nhân, hợp với thời tiết, mùa trong năm.
- Cần chú ý với các loại thuốc bôi kết hợp nhiều thành phần ví dụ như: các thuốc có 3 thành phần: corticoid (tác dụng chống viêm); kháng sinh (diệt khuẩn); thuốc kháng nấm (diệt nấm). Khi dùng các loại thuốc này để điều trị bệnh do một loại căn nguyên có thể dẫn đến tác dụng không cần thiết của các loại hoạt chất khác, thậm chí còn là tác dụng có hại.
- Không trộn lẫn lộn các loại thuốc vào nhau vì có thể xảy ra hiện tượng đông vón, mất tác dụng hoặc phản ứng giữa các thành phần của thuốc.
- Đối với thuốc mỡ khi dùng cần lưu ý:
Không được bôi thuốc trên diện rộng vì có thể gây ra hạn chế bài tiết mồ hôi, gây xung huyết, thậm chí có thể sốt. Nên chia ra mỗi vùng cơ thể bôi vào một thời điểm thích hợp, ví dụ: bôi vùng bụng buổi sáng, vùng đùi buổi chiều, vùng tay chân buổi tối…
Không dùng thuốc dạng mỡ điều trị các tổn thương đang ở giai đoạn cấp tính, chảy nước vì càng làm cho tổn thương nặng thêm, chảy nước nhiều hơn.
Các loại thuốc bôi có tác dụng tại chỗ và có thể có tác dụng toàn thân như: mỡ corticoid mạnh thì phải rất thận trọng. Không bôi lên vùng da mỏng như ở mặt, cổ… vì gây teo da, giãn mạch, Không bôi nhiều hơn 2 lần trong 1 ngày, không nên bôi kéo dài hơn 1 tuần nếu không có chỉ định của bác sĩ, không dùng cách bôi và băng bịt kín lại vì hoạt chất sẽ ngấm quá nhiều vào cơ thể gây tác dụng phụ toàn thân.
Như vậy, cũng giống như các loại thuốc khác, thuốc bôi sẽ có hiệu quả khi dùng đúng cách, đúng bệnh, đúng liều lượng. Thận trọng khi dùng thuốc, dùng theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa là nguyên tắc để tránh tác dụng phụ và các phản ứng có hại của thuốc.
Theo ThS. Vũ Tuấn Anh
Sức Khỏe & Đời Sống
Viêm da tiếp xúc côn trùng và thuốc trị
Viêm da tiếp xúc côn trùng xảy ra do tiếp xúc trực tiếp với các phần của côn trùng như bụi phấn từ cánh côn trùng hoặc chất tiết.
Viêm da tiếp xúc cũng xảy ra khi tiếp xúc gián tiếp với côn trùng qua dây phơi, quần áo, khăn...
Ngay sau khi tiếp xúc da ở chỗ tiếp xúc trực tiếp sẽ bị đỏ lên, sưng nề, thành các vệt như bị cào hoặc các đám mụn nước, mụn mủ bé li ti. Đôi khi bị trợt ra và chảy dịch chảy mủ ở vùng trung tâm vết tổn thương.
Tổn thương ở vùng mắt có thể làm mi mắt sưng nề, mắt híp lại, đôi khi phải vài ngày sau mới mở mắt ra được. Bị tổn thương ở vùng nách có thể gây trợt nhiều hoặc loét sâu qua lớp thượng bì. Nếu bạn gãi hoặc sờ tay vào chỗ tiết dịch rồi lại sờ tay lên mắt hoặc vùng da khác sẽ làm tổn thương da lây lan thêm.
Nếu dây dịch tiết sang da người khác nhất là các em bé sơ sinh thì cũng làm em bé bị lây bệnh. Thường thì bệnh nhân có cảm giác bỏng rát ở vùng da bị tổn thương, nếu loét và nhiễm trùng có mủ thì sẽ rất đau. Đôi khi có ngứa nhẹ từng lúc. Các dấu hiệu đau rát hoặc ngứa đa số không ảnh hưởng đến sinh hoạt và giấc ngủ của bệnh nhân. Bệnh nhân và một số bác sĩ không thuộc chuyên khoa da liễu có thể nhầm lẫn với bệnh zona.
Zona là do virus varicella gây nên, virut làm tổn thương vỏ bọc các dây thần kinh và gây nên các mụn nước và bọng nước. Sự khác biệt giữa zona và viêm da tiếp xúc côn trùng được phân biệt dựa vào các dấu hiệu sau. Zona chỉ bị tổn thương da ở một bên của thân thể, chỗ mà đoạn dây thần kinh chi phối bị virut xâm nhập và rất đau, đôi khi giật nhoi nhói từng cơn, đau có thể còn lan toả ra các vùng lân cận tổn thương da.
Viêm da tiếp xúc do côn trùng thì tổn thương bị bất kỳ ở vùng da nào mà tiếp xúc với côn trùng, thường hay bị cả hai bên thân thể, không đau nhiều, không bị giật nhói nhói từng cơn và chỉ có cảm giác bỏng rát tại vị trí bị tổn thương da.
Tổn thương da trong viêm da tiếp xúc côn trùng.
Chăm sóc da:
Khi có biểu hiện viêm da do tiếp xúc bệnh nhân vẫn tắm rửa bình thường được. Không xát chanh, muối hoặc xà phòng vào chỗ da bị tổn thương. Rửa nhẹ nhàng bằng nước muối hoà loãng ngày 2 lần.
Thuốc trị: Khi tổn thương da chảy nước, sưng nề thì bôi hoặc đắp các dung dịch như nước muối 9 phần nghìn, dalibour, eryfluid... Khi tổn thương da khô hơn thì bôi các thuốc có chứa kháng sinh và cortison như eumovate, fucicort, gentrison... Toàn thân uống một trong các thuốc kháng histamin như: loratadin, chlorpheniramin...
Nếu có nhiễm trùng thì phải uống một đợt thuốc kháng sinh theo chỉ định của bác sĩ. Nếu sưng tấy nhiều làm đau rát đặc biệt tổn thương ở vùng mắt thì có thể uống một đợt corticoid liều trung bình trong 3-5 ngày. Dùng corticoid bắt buộc phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa da liễu vì thuốc này có nhiều tác dụng phụ. Một số trường hợp để lại vết thâm kéo dài vài tháng.
Để phòng tránh vết thâm thì trong lúc bệnh cấp tính nên chiếu tia laser He-Ne phối hợp từ 5-10 ngày để giảm viêm nhanh và hạn chế để lại vết thâm. Sau khi khỏi nếu tổn thương ở trên mặt thì nên tránh nắng từ 10-14 giờ để tránh thâm. Nếu vẫn bị vết thâm phải bôi các chế phẩm có chứa hydroquinon 2%, cream vitamin E để làm sáng da.
Theo SKDS
Dễ bị thâm tím, do đâu? Khi phát hiện vết thâm tím trên người mà không rõ căn nguyên, chắc hẳn sẽ băn khoăn. Thông thường, hiện tượng thâm tím này do va chạm ở đâu đó mà người ta không nhớ rõ nhưng cũng có thể vì nhiều lý do khác. Phụ nữ, người già và trẻ em thường bị thâm tím trên người nhiều hơn nam giới,...