Tay chân miệng và sốt phát ban: Những dấu hiệu tương đồng dễ gây nhầm lẫn
Sốt, nổi ban đỏ là triệu chứng thường gặp ở cả bệnh tay chân miệng và sốt phát ban, nếu cha mẹ không lưu ý rất dễ nhầm lẫn. Bệnh tay, chân miệng rất nguy hiểm có thể gây tử vong ở trẻ nhỏ.
Hiểu rõ biểu hiện lâm sàng của từng loại bệnh giúp phát hiện kịp thời và điều trị sớm.
Tay chân miệng và sốt phát ban đều khởi bệnh với triệu chứng mệt mỏi, nôn, sốt. Sau đó cơ thể bé sẽ xuất hiện các nốt ban đỏ dạng chấm, đốm ở bề mặt da. Các bác sĩ cho biết việc chẩn đoán bệnh tay chân miệng chủ yếu dựa vào biểu hiện lâm sàng, ít khi chờ vào xét nghiệm.
Do đó, bố mẹ hoàn toàn có thể phân biệt được hai loại bệnh này thông qua những triệu chứng đặc trưng của nó. Vậy làm thế nào để phân biệt bệnh chân tay miệng với sốt phát ban?
1. Biểu hiện của bệnh tay chân miệng
Tay chân miệng thường gặp ở trẻ nhỏ, nhất là các bé dưới 5 tuổi. Căn bệnh này có tốc độ lây lan nhanh, dễ bùng phát thành dịch. Thời điểm dễ mắc bệnh là tháng 3 – 5 và tháng 8 – 9 hàng năm.
Nguyên nhân gây bệnh tay chân miệng là do nhóm virus đường ruột Enterovirus tấn công cơ thể. Bệnh có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như viêm màng não, viêm phổi, viêm cơ tim…dẫn đến tử vong ở trẻ nhỏ.
Phân biệt tay chân miệng và sốt phát ban để điều trị đúng cách – Ảnh: Internet
Bệnh tay chân miệng có các dấu hiệu nhận biết tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể.
- Giai đoạn ủ bệnh: Thời gian kéo dài thường từ 3 – 7 ngày. Biểu hiện ban đầu của bệnh trong giai đoạn này thường không rõ rệt với một số triệu chứng như sốt nhẹ, đau họng, chán ăn, tiết nhiều nước bọt…Trẻ có thể bị tiêu chảy nhẹ và kém linh hoạt hơn. Đôi khi bố mẹ sẽ sờ thấy hạch ở cổ và dưới hàm của bé.
- Giai đoạn khởi phát: Đây là giai đoạn khiến bố mẹ dễ nhầm lẫn tay chân miệng với sốt phát ban nhất. Bởi từ 1 – 2 ngày sau thời kỳ ủ bệnh, bé sẽ xuất hiện các triệu chứng như sốt cao từ 39 – 40oC. Một số triệu chứng điển hình của bệnh tay chân miệng như phát ban tại các vị trí đặc hiệu trên da, loét miệng xuất hiện.
- Giai đoạn toàn phát: Biểu hiện bệnh bắt đầu bằng các đốm phát ban ở bàn chân. Ngoài các triệu chứng điển hình, còn xuất hiện thêm các biểu hiện như: Bóng nước xen kẽ với hồng ban, chỉ xuất hiện hồng ban. Một số trường hợp bé chỉ bị loét miệng.
Thời kỳ toàn phát có thể kéo dài từ 3 – 10 ngày. Sau đó vết lở loét sẽ mất dần nhưng để lại vết thâm trên cơ thể trẻ. Trong trường hợp trẻ bị sốt cao và nôn nhiều có nguy cơ biến chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp rất nguy hiểm.
- Giai đoạn lui bệnh: Trẻ sẽ hồi phục hoàn toàn sai 3 – 5 ngày kết thúc giai đoạn toàn phát nếu không có biến chứng. Trong trường hợp trẻ bị sốt cao kéo dài hơn 48h gia đình cần đưa đến bệnh viện để được điều trị ngay lập tức.
2. Biểu hiện của bệnh sốt phát ban
Biểu hiện của bệnh sốt phát ban thường xuất hiện từ 1 – 2 tuần sau khi nhiễm. Giai đoạn đầu bệnh không có dấu hiện rõ ràng hoặc xuất hiện triệu chứng nhẹ. Bệnh nhân sẽ bị sốt cao trên 39,4 độ C ngay khi nhiễm virus. Kèm theo các triệu chứng viêm họng, sổ mũi. Tình trạng này kéo dài từ 3 – 5 ngày. Ở trẻ em bị sốt phát ban sẽ xuất hiện hạch bạch huyết ở cổ.
Hiện tượng phát ban nổi lên theo sau cơn sốt. Trên da của người bệnh xuất hiện các đốm nhỏ, đỏ hoặc sưng lên. Một số đốm có vòng trắng bao quanh. Phát ban lan rộng từ vùng ngực đến lưng, bụng, sang cổ tay và cánh tay.
Biểu hiện của bệnh sốt phát ban – Ảnh: Internet
Sau đó chúng có thể lan xuống chân hoặc lên mặt tùy tình trạng. Các đốm phát ban thường biến mất sau vài giờ hoặc vài ngày mà không để lại dấu vết trên da. Cha mẹ cần chú ý điều này để phân biệt giữa tay chân miệng và sốt phát ban ở trẻ.
Bên cạnh các biểu hiện trên, thì bệnh nhân sẽ rất mệt mỏi, khó chịu. Kèm theo đó là hiện tượng tiêu chảy nhẹ, chán ăn, sưng mí mắt ở trẻ.
3. Điểm khác nhau giữa tay chân miệng và sốt phát ban
1. Dấu hiệu đặc trưng khi sốt
- Sốt phát ban: Thường không phân biệt độ tuổi. Bất cứ ai cũng có thể bị mắc bệnh, từ trẻ em 6 tháng tuổi cho đến người cao tuổi.
Người bệnh có thể bị sốt cao liên tục, đỡ khi dùng thuốc hạ sốt. Nhưng sau đó sốt trở lại và kéo dài từ 2 – 6 ngày.
Xét về toàn trạng thì người bệnh vẫn tỉnh táo, chơi tốt, không có dấu hiệu nhiễm trùng đường hô hấp, đường ruột mặc dù có các triệu chứng kèm theo như tiêu chảy, ho, sổ mũi.
Video đang HOT
Sốt phát ban có thể tự khỏi sau 2 – 4 ngày và có thể tái phát với tần xuất 2 – 3 lần/ năm. Thậm chí là 5 – 6 lần trên năm.
- Tay chân miệng: Chỉ xuất hiện ở trẻ dưới 5 tuổi. Và trẻ em dưới 3 tuổi là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh cao nhất.
Tùy thuộc vào thể bệnh mà có những biểu hiện điển hình riêng. Một số trẻ có thể bị sốt cao liên tục. Một số trẻ lại chỉ sốt nhẹ mặc dù cùng bị tay chân miệng. Bệnh không đáp ứng với thuốc hạ sốt.
Với thể tối cấp, bệnh diễn tiến nhanh và gây ra những biến chứng nặng như: Suy tuần hoàn, hô hấp, hôn mê. Trong trường hợp này nếu không được cấp cứu kịp thời trẻ có thể bị tử vong trong 2 – 4 ngày.
Với thể không điển hình thì dấu hiệu phát ban không rõ, hoặc chỉ có vết loét miệng, hoặc chỉ có triệu chứng thần kinh, tim mạch hay hô hấp mà không phát ban loét miệng.
Tay chân miệng và sốt phát ban có những dấu hiệu đặc trưng riêng dễ nhận biết – Ảnh: Internet
2. Hình dạng và kích thước các nốt ban
Triệu chứng nổi ban đỏ xuất hiện ở cả bệnh tay chân miệng và sốt phát ban. Tuy nhiên các dấu hiệu đặc trưng lại rất dễ phân biệt.
- Đặc điểm điển hình của sốt phát ban thường là xuất hiện các nốt ban đỏ và sáng. Ban nổi đồng loạt trên khắp cơ thể của bé. Hình dáng ban mịn, ít sần sùi trên bề mặt da. Sau khi lặn thường không để lại thâm, sẹo trên cơ thể người bệnh.
- Điểm đặc trưng của tay chân miệng là các nốt ban xuất hiện từ 1 – 2 ngày sau khi phát bệnh. Các nốt hồng ban có đường kính vài mm nổi trên da của trẻ. Sau đó chúng phát triển thành mọng nước, gây lở loét xung quanh miệng.
Nốt ban đỏ xuất hiện nhiều ở ngón tay, lòng bàn tay, bàn chân, mông, trên miệng, bên trong lưỡi và vòm miệng. Ở khu vực tay, chân, mông, các nốt ban thường có kích thước từ 2 – 5mm. Ở giữa các nốt ban có màu xám sẫm và hình bầu dục. Chúng không gây đau, ngứa và có thể kéo dài đến 10 ngày.
Các nốt ban ở bên trong miệng, lưỡi và vòm miệng có đường kính từ 4 – 8mm, khiến bé gặp kho khăn khi nuốt.
Trên đây là một số dấu hiệu phân biệt giữa tay chân miệng và sốt phát ban bạn cần biết để điều trị đúng cách. Hãy đưa trẻ đến bệnh viện ngay khi có dấu hiệu bất thường để đảm bảo được chẩn đoán, điều trị đúng bệnh.
Thỉnh thoảng bị đau ngực có nguy hiểm không?
Chúng ta thường nghĩ rằng đau ngực là dấu hiệu của cơn đau tim, tuy nhiên đau ngực không nhất thiết có nghĩa là bạn có vấn đề về tim.
Có rất nhiều thủ phạm tiềm ẩn khác gây nên cơn đau ngực như trào ngược hoặc đau ngực do gắng sức sau khi tập nặng. Cả hai đều khó chịu. Nhưng không nghiêm trọng như cơn đau tim.
Tuy nhiên, cần phải nói rõ, các bác sĩ tim mạch cho biết đau ngực là một dấu hiệu cảnh báo mà bạn không bao giờ nên bỏ qua. Bạn nên luôn tìm kiếm sự chăm sóc y tế nếu bị đau ngực.
Dưới đây là những lý d o nghiêm trọng và không quá nghiêm trọng khiến cơn đau ngực xuất hiện rồi biến mất, theo các chuyên gia tim mạch.
Các loại đau ngực
Đau ngực diễn ra theo nhiều mức độ từ nhức và đau âm ỉ đến đau nhói và dữ dội. Nó có thể khác nhau ở mỗi người, ngay cả khi nguyên nhân là giống nhau. Và loại đau hoặc cường độ đau không nhất thiết quyết định liệu đó là vấn đề ở tim hay một cái gì đó ít nghiêm trọng hơn. Trên thực tế, đôi khi cơn đau ngực không nghiêm trọng lắm như co thắt thực quản hoặc chấn thương cơ xương lại rất dữ dội, trong khi đau ngực liên quan đến tim có thể rất kín đáo.
Đau ngực ở phụ nữ
Đau ngực do trào ngược hoặc ho nhiều là giống nhau giữa phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, với cơn đau tim, phụ nữ có thể gặp một số triệu chứng "lạ" khác với những triệu chứng của nam giới.
Không giống như nam giới, phụ nữ ít bị đau ngực như một triệu chứng biểu hiện của cơn đau tim. Đôi khi các triệu chứng có thể khó thấy hơn đối với bệnh nhân nữ, chẳng hạn như chỉ tức nặng hoặc thậm chí chỉ khó thở. Các bệnh nhân nữ có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cần nhận thức được tầm quan trọng của việc lắng nghe cơ thể, đặc biệt là khi tập thể dục và/hoặc khi có những hoạt động thể lực nặng khác.
Phụ nữ nên luôn tin vào bản năng của mình và thông báo cho bác sĩ khi có điều gì đó không ổn để có thể đánh giá thêm. Phụ nữ có phần dễ có các triệu chứng khó thở, buồn nôn/nôn và đau lưng hoặc hàm khi bị cơn đau tim hơn nam giới.
Theo Hội Tim mạch Mỹ, dưới đây là những dấu hiệu của cơn đau tim. Hãy gọi cấp cứu và đến bệnh viện ngay lập tức:
- Cảm giác tức ngực khó chịu, bóp chặt, đầy hoặc đau ở giữa ngực, kéo dài hơn một vài phút, xuất hiện rồi tự hết.
- Đau hoặc khó chịu ở một hoặc cả hai cánh tay, lưng, cổ, hàm hoặc dạ dày
- Khó thở có hoặc không kèm theo khó chịu ở ngực
- Đổ mồ hôi lạnh, buồn nôn hoặc chóng mặt.
Đau ngực không liên quan đến tim
Có một số lý do khiến bạn cảm thấy đau ngực mà không liên quan đến vấn đề tim mạch. Có các cơ, mô liên kết, xương, da, phổi, thực quản, dạ dày và rất nhiều dây thần kinh ở vùng ngực, đó là lý do tại sao bạn thường liên tưởng cơn đau ngực với bệnh tim. Tuy nhiên, tim không được trang bị các dây thần kinh như nhiều bộ phận cơ thể khác.
Đau ngực không liên quan đến tim được gọi là đau quy chiếu (referred pain): Bạn cảm thấy đau ở một chỗ, nhưng căn nguyên gây đau lại ở một chỗ khác. Ví dụ như trào ngược thường được cảm thấy ở vùng ngực, nhưng cơn đau không xuất phát từ tim.
Công bằng mà nói, các nguyên nhân không do tim gây ra đau ngực phổ biến hơn nhiều so với các nguyên nhân do tim. Nhưng vấn đề là các triệu chứng như vậy đòi hỏi cả đánh giá định tính và bệnh cảnh để hiểu rõ hơn về cách tìm hiểu chúng và đâu là nguyên nhân có thể xảy ra nhất.
Vì lý do đó, đừng mặc định rằng đau ngực không nghiêm trọng chỉ vì nó có thể không ở tim. Cho dù có ở tim hay không, bạn cũng nên đến gặp bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị thích hợp càng sớm càng tốt.
Dưới đây là một số tình trạng đau ngực không liên quan đến tim:
Đau ngực do căng cơ
Bạn có thể cảm thấy đau ngực xuất hiện sau khi nâng tạ hoặc chấn thương ở vùng ngực. Các phương pháp điều trị thường bao gồm nghỉ ngơi, chườm đá/chườm nóng và thuốc giảm đau không kê đơn và/hoặc thuốc chống viêm (NSAID) để điều trị căng cơ. Tuy nhiên, chấn thương ở ngực và bất kỳ cơn đau ngực nào trong hoặc sau khi tập thể dục đều cần được đánh giá y tế.
Co thắt thực quản
Nếu đã từng bị ợ chua hoặc trào ngược axit, bạn có thể đã quen với co thắt thực quản. Đó là cơn co thắt cơ gây đau xảy ra ở phần dưới thực quản. Đau có thể khác nhau, nhưng thường là đau nhói đột ngột. Nó có thể kéo dài trong vài phút hoặc vài giờ.
Bạn có thể thử một số biện pháp tại nhà để giảm ợ nóng, nhưng ợ nóng thường xuyên có thể là dấu hiệu của bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD), là tình trạng viêm thực quản. Thực quản là ống nối miệng với dạ dày. Đi khám bác sĩ để thảo luận về các triệu chứng để giảm bớt và ngăn ngừa tổn thương thực quản.
Viêm sụn sườn
Còn được gọi là viêm khớp ức sườn, đây là một biến thể của thoái hóa khớp. Kiểu đau có thể khác nhau, nhưng thường được mô tả là đau nhói, nhức hoặc tức nặng.
Và kiểu đau ngực này có xu hướng xuất hiện rồi tự hết vì nó thường được kích thích bởi cử động ở vùng ức - sườn.
Nghỉ ngơi, chườm lạnh, xông hơi và thuốc chống viêm không steroid (NSAID) như ibuprofen giúp giảm đau.
Như thường lệ, hãy gọi cho bác sĩ khi bị đau ngực. Ngay cả khi bạn đã được chẩn đoán là bị viêm khớp hoặc thoái hóa khớp, bác sĩ cũng cần biết đây có phải là cơn đau ngực mà bạn chưa từng gặp hay không.
Ho nhiều
Cảm lạnh thông thường hoặc bệnh gì đó nghiêm trọng hơn như viêm phổi, thường tạo ra chất nhầy và đờm, khiến bạn bị ho. Ho là cách cơ thể cố gắng làm sạch đờm và chất nhầy ở phổi, nhưng sau một vài ngày ho và thở gấp có thể khiến bạn đau ngực.
Điều trị cảm lạnh thông thường bao gồm các loại thuốc không kê đơn để giảm cảm lạnh, ho và giảm đau.
Cơn hoảng loạn
Thật khó để phân biệt giữa cơn hoảng loạn và cơn đau tim vì cả hai đều liên quan đến đau ngực và có các triệu chứng giống nhau. Nhưng đau ngực trong cơn hoảng loạn là khu trú và có thể xuất hiện rồi biến mất. Đau ngực trong cơn đau tim thường liên tục và tăng dần, và nó có thể lan từ ngực đến các vùng khác, chẳng hạn như một hoặc cả hai cánh tay, lưng, vai, bụng, cổ, cổ họng hoặc hàm. Tuy nhiên, hãy tìm sự chăm sóc y tế ngay lập tức để loại trừ cơn đau tim.
Thuyên tắc phổi
Đây là một tình trạng đe dọa tính mạng xảy ra khi có tắc nghẽn động mạch trong phổi, điển hình là do huyết khối. Các dấu hiệu đau hoặc sưng ở chân và đau ngực xuất hiện và tự hết khi gắng sức ban đầu có thể bị bỏ qua. Nhưng đây là một tình trạng cần được chăm sóc y tế khẩn cấp.
Các triệu chứng có thể rất khác nhau. Nhưng đau ngực có xu hướng đột ngột, dữ dội và đau nhói. Nó không do hoạt động thể chất gây ra và thường kéo dài quá vài phút. Tình trạng này cần phải nhập viện với các lựa chọn điều trị như thuốc làm loãng máu, liệu pháp tan huyết khối, mang tất ép và trong một số trường hợp phải phẫu thuật để cải thiện lưu lượng máu và giảm thiểu hình thành cục máu đông mới.
Bệnh zona
Nếu đã từng bị thủy đậu, bạn có thể bị bệnh zona. Virus gây thủy đậu có thể nằm im trong cơ thể bạn và tái hoạt động sau nhiều năm hoặc nhiều thập kỷ-mặc dù tiêm chủng thủy đậu có thể giảm nguy cơ. Người lớn khỏe mạnh nên tiêm chủng thủy đậu ở tuổi 50 trở lên; bạn thường tiêm một liều sau đó là liều thứ hai từ 2 đến 6 tháng sau đó.
Zona phát triển ở những vùng nhất định trên cơ thể, phổ biến nhất là trên ngực và lưng. (Mặc dù bạn có thể bị zona ở bất cứ đâu, kể cả cánh tay hoặc mặt.) Da nhạy cảm khi chạm vào, có cảm giác châm chích hoặc ngứa ran. Một loạt mụn nước đau cuối cùng hình thành (thường ở một bên của cơ thể) và tình trạng này có thể dẫn đến các biến chứng lâu dài và đau dây thần kinh ở một số người.
Bệnh zona cũng có thể cảm thấy giống như đau ngực, và cần đi khám bác sĩ không chỉ để loại trừ tình trạng tim mà còn để được điều trị để làm dịu các triệu chứng nếu bạn bị bệnh zona.
Đau ngực liên quan đến tim
Đau ngực là một dấu hiệu cảnh báo, bất kể nó xảy ra như thế nào.
Khó chịu ở ngực xảy ra khi gắng sức và giảm khi nghỉ ngơi cần phải được đánh giá y tế. Đau ngực xuất hiện khi nghỉ ngơi và kết hợp với các triệu chứng khác như khó thở, chóng mặt/choáng váng, buồn nôn, nôn hoặc tim đập nhanh cần được đánh giá y tế.
Dưới đây là một số tình trạng đau ngực liên quan đến tim:
Đau tim
Bạn có thể cho rằng cơn đau tim chỉ gây ra đau ngực đột ngột, nhưng không phải lúc nào cũng vậy.
Đau ngực không thường xuyên có thể là dấu hiệu của cơn đau tim. Sẽ cần phải đánh giá kỹ lưỡng để xác định nguyên nhân gây ra các triệu chứng dựa trên tiền sử, khám thực thể và xét nghiệm chẩn đoán.
Đừng trì hoãn việc tìm sự trợ giúp khi bị đau ngực từng cơn hoặc đột ngột. Gọi cấp cứu hoặc đến ngay bệnh viện.
Bóc tách động mạch chủ
Bóc tách động mạch chủ là một tình trạng hiếm gặp nhưng nguy hiểm tính mạng xảy ra khi lớp phủ bên trong của động mạch chủ bị bong ra, dẫn đến tách rời ba lớp của thành động mạch chủ. Tình trạng này có thể gây ra đau ngực từng cơn hoặc đau dữ dội như rách ngực thường lan ra vai và lưng. Nó thường xảy ra hơn với nam giới trong độ tuổi từ 60 đến 80.
Một số nguyên nhân phổ biến bao gồm huyết áp cao, xơ cứng động mạch, khiếm khuyết van động mạch chủ, bệnh mô liên kết hoặc chấn thương ngực, như tai nạn xe hơi.
Bạn không thể thiếu quyết đoán. Gọi cấp cứu và đến bệnh viện ngay lập tức nếu thấy bị loại đau ngực này.
Đau thắt ngực
Đau thắt ngực là thuật ngữ được sử dụng để mô tả sự khó chịu ở ngực hoặc đau xảy ra khi tim không nhận được đủ lượng máu và oxy. Đau ngực liên quan đến tim khởi phát do hoạt động thể chất và giảm bớt khi nghỉ ngơi thường được gọi là đau thắt ngực ổn định.
Mặt khác, đau thắt ngực không ổn định là tình trạng đau liên quan đến tim xảy ra ngay cả khi bạn không tập thể dục hoặc gắng sức. Đau thắt ngực không ổn định có thể xảy ra khi mảng xơ vữa động mạch vành bị vỡ và gây ra đau ngực liên quan đến tim khi nghỉ ngơi, hoặc thậm chí là các triệu chứng không ổn định về cường độ.
Các triệu chứng khác bao gồm đau ngực lan lên cổ họng hoặc hàm, tức hoặc nặng ngực, đau lan xuống cánh tay và giữa các xương bả vai.
Đừng chần chừ trơcs bất kì loại đau thắt ngực có thể xảy ra. Nó có thể là dấu hiệu của cơn đau tim. Hãy gọi cấp cứu và đến bệnh viện.
Viêm cơ tim
Nói một cách đơn giản, viêm cơ tim là tình trạng cơ tim bị viêm, thường là do nhiễm trùng. Nó cũng có thể do phản ứng thuốc hoặc bệnh lý viêm.
Nhiễm virus có thể gây viêm cơ tim. Ví dụ, Covid-19 được biết là gây viêm cơ tim ở một số bệnh nhân, và ngay cả những trường hợp Covid-19 tương đối nhẹ cũng có thể có dấu hiệu tổn thương tim.
Các triệu chứng bao gồm đau ngực hoặc đau xuất hiện và biến mất, lan đến hàm và cánh tay, mệt mỏi, tim đập nhanh (viêm cơ tim có thể gây loạn nhịp tim), choáng váng, khó thở sau khi tập thể dục hoặc khi nằm, phù ở tay, chân, mắt cá chân và bàn chân, và đột ngột mất ý thức.
Dù già hay trẻ, nếu có những triệu chứng này, hãy đi khám ngay lập tức.
Viêm màng ngoài tim
Viêm màng ngoài tim là tình trạng viêm ở màng mô mỏng bao phủ quanh tim. Ngực có thể đau nhói và như dao đâm, xuất hiện rồi hết, và thay đổi theo vị trí.
Viêm màng ngoài tim có thể do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc nấm và đôi khi xảy ra sau khi phẫu thuật tim hoặc đau tim. Bệnh có thể là cấp hoặc mãn tính, với dạng cấp tính khiến bạn cảm thấy như bị cơn đau tim. Viêm màng ngoài tim cấp tính thường không kéo dài, trong khi mãn tính phát triển theo thời gian và có thể mất nhiều thời gian hơn để điều trị.
Cả hai đều không tốt cho tim, vì cả hai đều làm rối loạn nhịp tim và chức năng bình thường của tim. Mặc dù chúng hiếm khi đe dọa đến tính mạng, nhưng không có cách nào để biết cơn đau ngực là do viêm màng ngoài tim hay do cơn đau tim.
Đừng lãng phí thời gian, hãy nhanh chóng đến bệnh viện.
Các loại thuốc điều trị giảm nhẹ triệu chứng bệnh tay chân miệng Trong điều trị bệnh tay chân miệng, rất nhiều nhóm thuốc khác nhau có thể được sử dụng như thuốc hạ sốt, thuốc chống co giật,... Tuy nhiên, việc lựa chọn thuốc như thế nào lại phụ thuộc rất nhiều vào mức độ biểu hiện bệnh của bệnh nhân. Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm rất thường gặp, đặc biệt ở...