Tàu quốc tịch Nga lần đầu tiên cập bến cảng Việt Nam khi nào?
Theo nhà báo Alexei Syunnerberg của đài Sputnik, chưa bao giờ trong các hải cảng Việt Nam có nhiều tàu Nga như trong những năm kháng chiến chống Mỹ.
Tàu hải quân Nga ở Cam Ranh, Việt Nam năm 1969 (ảnh tư liệu minh họa)
Ở giai đoạn lịch sử này, tính trung bình mỗi tháng có gần 40 tàu hàng khô và tàu chở dầu từ Liên Xô đã dỡ hàng tại các cảng Hải Phòng, Hồng Gai và Cẩm Phả của Việt Nam.
Alexei Syunnerberg viết rằng: “Nói chung, lịch sử các mối giao thông hàng hải giữa hai nước Nga – Việt đã bắt đầu hơn 150 năm trước đây.
Có lẽ sớm hơn nữa, nhưng bây giờ chúng tôi chỉ biết chính xác rằng, trong năm 1863 hai tàu khu trục “Abrek” và “Gaydamak” của Đế chế Nga đã cập bến cảng Sài Gòn.
Một chuẩn úy hải quân trẻ có tên Konstantin Stanyukovich phục vụ trên chiến hạm “Abrek” đã từng có lộ trình đi qua xứ Nam Kỳ trong thời gian một tháng. Sau này, khi đã trở thành nhà văn nổi tiếng, Stanyukovich đã công bố tập bút ký rất thú vị, trong đó viết về sự xâm nhập của Pháp vào Đông Dương, về cuộc đấu tranh của những người yêu nước Việt Nam chống kẻ xâm lược.
Ví dụ, ông đã mô tả các sự kiện liên quan đến đoàn tàu chiến Hoa Kỳ. Tất nhiên, khi đó Stanyukovich không thể đoán về những diễn biến lịch sử sau này. Nhưng, ngày nay chúng ta có thể nói rằng, những gì ông đã mô tả là bước đi đầu tiên của Mỹ trên con đường can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Năm 1845, dưới thời vua Thiệu Trị, ông Stanyukovich viết các giáo sĩ truyền đạo người Pháp thông báo với thuyền trưởng tàu chiến Mỹ đang neo đậu tại cảng Đà Nẵng về những hành động sách nhiễu của chính quyền địa phương.
Video đang HOT
Thuyền trưởng cùng 50 thủy thủ đã lên bờ, xâm chiếm ngôi nhà của vị quan chức chủ chốt, bắt ông này và mấy quan chức cao cấp khác làm con tin và đưa họ lên tàu của mình, sau đó tuyên chiến với những người Việt Nam địa phương, rồi mấy chiếc thuyền buồm bị đốt cháy.
Tuy nhiên, sau mấy ngày nữa, mệt mỏi vì phải chờ đợi một phản ứng chính thức từ triều đình mà vẫn không có tin tức gì cả, ông ta đã đưa tất cả các con tin lên bờ, và tàu chiến Mỹ đã nhổ neo, và (theo lời Stanyukovich) “viên thuyền trưởng rất hài lòng với cuộc phiêu lưu vui vẻ”.
Ở đây không thể không nhắc nhở rằng, sau 120 năm sự can thiệp quân sự trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam đã bắt đầu với việc lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng.
Trên hành trình từ các cảng Nga trên biển Baltic và Biển Đen tới Vladivostok trên Thái Bình Dương và khứ hồi, các tàu chiến của Đế chế Nga thường ghé thăm các cảng Việt Nam để lấy thêm than đá và lương thực.
Mỗi lần các thuyền trưởng đã gửi báo cáo về chuyến thăm Việt Nam cho Cơ quan quân sự và Bộ Ngoại giao Nga. Các bản báo cáo vẫn được bảo quản trong kho lưu trữ, và nếu muốn thì bất cứ ai có thể tiếp cận để nghiên cứu.
Nhà báo Nga Alexei Syunnerberg.
Ví dụ, tháng 3 năm 1884 khi quân Pháp chiếm thành phố Bắc Ninh, Sài Gòn đã biết tin này một tuần sau đó. Còn ở St. Petersburg, khi đó là thủ đô của Đế chế Nga, cách Việt Nam rất xa, thông tin này đã được biết chỉ muộn hơn một ngày. Nhờ máy điện báo, thuyền trưởng của tàu hộ tống Nga “Skobolev” đang cập bến cảng Sài Gòn đã gửi báo cáo tới St. Petersburg.
Bản báo cáo của thuyền trưởng tàu tuần dương Nga “Oryol” ghé vào cảng Sài Gòn ngày 17 tháng 2 năm 1916 cũng vô cùng thú vị. Hai ngày trước đó các hội kín của Việt Nam đã thực hiện cuộc tiến công vào Sài Gòn dưới khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp và vì công lý.
Thuyền trưởng người Nga báo cáo rằng, động lực chính của cuộc nổi dậy là cuộc đấu tranh chống hàng động của Pháp ép buộc những người nông dân Việt Nam phải phục vụ trong quân đội thuộc địa.
Mà đây là thời điểm Thế chiến I, và Pháp đã có kế hoạch gửi những lính Việt tham gia trực tiếp vào chiến trận ở châu Âu. Báo cáo cũng lưu ý rằng, người Pháp đã xúi giục cuộc nổi dậy bằng cách phá hủy cấu trúc truyền thống của cộng đồng người Việt.
Như các bạn có thể thấy, thuyền trưởng của tàu tuần dương Nga, dù chuyến Sài Gòn vào tháng Hai năm 1916 chỉ kéo dài một vài ngày, có thể hiểu khá chính xác tình hình trong nước.”
Theo Viettimes
Lục quân Việt Nam và con đường hiện đại hóa
Dù Lục quân Thái Lan đứng 21 thế giới nhưng số vũ khí hiện đại của lực lượng này nhiều hơn ngôi vị thứ 8 của Lục quân Việt Nam.
Nhiều nhất Đông Nam Á
Theo bảng xếp hạng này, đứng thứ hai trong khối Đông Nam Á - thứ 14 thế giới là Myanmar với 884 khẩu; một cường quốc quân sự khác của khu vực là Thái Lan có 695 khẩu và đứng vị trí 21. Trong đó, Lục quân Việt Nam sở hữu khoảng 2.200 khẩu pháo các loại, đứng thứ 8 trên thế giới, thứ 6 châu Á và dẫn đầu Đông Nam Á.
Trong các loại pháo của Việt Nam, uy lực nhất là khẩu M46 cỡ nòng 130mm. Đây là loại pháo nòng dài bắn xa đến 27km và bắn rất nhanh, tốc độ trung bình 8 phát/phút. Pháo bắn được nhiều loại đạn: đạn phá mảnh, đạn xuyên giáp, đạn khói, đạn chiếu sáng, đạn hóa học...
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, pháo 130mm của ta là đối thủ đáng gờm của Mỹ và quân đội Sài Gòn trong các trận đấu pháo. So với khẩu mạnh nhất của Mỹ thời đó là khẩu 175mm thì khẩu 130mm có ưu điểm nổi bật là tốc độ bắn nhanh hơn (khẩu 175mm tốc độ chỉ 2 đến 3 phát/phút).
Xếp sau pháo 130mm là các khẩu 152mm và 122mm. Trong 2 cỡ nòng này, quân đội Việt Nam có cả pháo xe kéo và pháo tự hành. Loại pháo xe kéo có D20 152mm và D30 122mm. Loại pháo tự hành 152mm gọi là 2S3 còn loại 122mm có tên là 2S1.
Lựu pháo D30 có trọng lượng chiến đấu 3,2 tấn, tầm bắn 15,4km, tốc độ bắn 5-6 phát/phút. Ưu điểm của nó là được đặt trên 3 càng nên có thể thay đổi hướng bắn 360 độ.
Tăng T-55 của Việt Nam.
Từ thập niên 1980, loại pháo này đã được quân đội Việt Nam trang bị và đã tham gia trong nhiều trận chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. D20 có tầm bắn hiệu quả ở khoảng 17,4 km với tốc độ bắn 5 đến 6 phát/phút. Ở Việt Nam, pháo D20 được trang bị cho các đơn vị pháo binh chiến dịch.
Pháo tự hành 2S1 nặng 15,7 tấn, dài 7,3m, rộng 2,85m, cao 2,4m với kíp lái 4 người. Nòng pháo cỡ 122m bắn được nhiều loại đạn gồm từ đạn chống tăng, đạn phá mảnh, đạn xuyên... Thông thường với cơ số đạn 40 viên thì 2S1 thường mang 35 viên đạn nổ, đạn phá mảnh và 5 viên đạn chống tăng. Ở Việt Nam, chúng ta quen gọi 2S1 là Su-122.
Pháo tự hành 2S3 có trọng lượng 28 tấn với kíp xe 4 người. Cơ số đạn của xe là 46 viên. Trên xe cũng có 1 đại liên cỡ nòng 7,62mm. Ở Việt Nam chúng ta thường gọi loại pháo tự hành này là Su-152. Nhưng khác với Su-122, Su-152 tốc độ bắn chậm hơn nhiều, trung bình chỉ đạt 1,9 phát/phút.
Một loại pháo đáng kể nữa phải nói đến là pháo phản lực. Từ trong kháng chiến chống Mỹ, Liên Xô đã viện trợ Việt Nam nhiều pháo phản lực kiểm BM-14 và BM-21.
Trong kháng chiến chống Mỹ, các dàn pháo phản lực đã có độ chính xác cao hơn. Tuy nhiên, lối đánh du kích ở miền Nam chưa cho phép quân ta sử dụng cả một xe phóng. Quân ta đã sáng tạo tháo dời các nòng pháo ra thành DKB. Với những khẩu DKB, quân ta đã pháo kích vào sân bay Đà Nẵng, sân bay Biên Hòa gây cho địch nhiều thiệt hại.
Bên cạnh các loại pháo kể trên, trong biên chế các đơn vị Lục quân Việt Nam còn nhiều loại hỏa lực mạnh khác như pháo 105mm, DKZ, Cối 120mm, cối 160mm, B40/B41. Đây là các phương tiện hỗ trợ hỏa lực rất hữu hiệu cho bộ binh.
Hiện đại hóa
Mặc dù có số lượng đông đảo, tuy nhiên phần lớn trang bị của Việt Nam đã có tuổi đời hàng chục năm, vì vậy hiện đại hóa Lục quân là yêu cầu cấp bách nhằm thích ứng với chiến tranh hiện đại.
Khi trả lời trước cơ quan truyền thông ngày 21/12/2015, Thượng tướng Võ Văn Tuấn - Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Namcho biết: Nhiệm kỳ vừa qua, Việt Nam đã ưu tiên hiện đại hóa cho 5 lực lượng: Quân chủng Hải quân; Phòng không Không quân; Trinh sát kỹ thuật; Tác chiến điện tử, và Thông tin liên lạc. Quân đội Việt Nam không đi viễn chinh, không đi xâm lược.
Theo_Báo Đất Việt
Giải mật "tàu cá" Liên Xô nắm TSB Mỹ, giúp Việt Nam Trên trang web của Sputniknews có bài viết về đóng góp của lực lượng trinh sát, tình báo Liên Xô giúp đỡ Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Bài viết dựa trên các tai liêu tôi mât vê hoat đông nay, được Nga công bô môt phần (chư không phai tât ca) sau nửa thế kỷ. Mặc dù chưa nắm được...