Tạo lực đẩy cho nền kinh tế: Nới nợ công, cứu tổng cầu
Để tạo lực đẩy cho “cỗ xe tam mã” của nền kinh tế, cần nới rộng tỷ lệ nợ công/ GDP, cứu tổng cầu đang xuống thấp và tạo điều kiện phát triển các mô hình kinh doanh mới.
Song song với nới room nợ công, Việt Nam cần hướng đến kích thích nền kinh tế đồng bộ, vừa tăng đầu tư vào hạ tầng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo…
Nới nợ công không đáng ngại
Các nhà kinh tế học đầu ngành cho rằng, không thể không tính đến động thái nới rộng tỷ lệ nợ công trên GDP, nếu muốn thúc đẩy “cỗ xe tam mã” (gồm đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng) của nền kinh tế Việt Nam.
Theo GS. Lê Văn Cường, nguyên Giám đốc Trung tâm Kinh tế Sorbonne thuộc Đại học Paris 1, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam tăng cao không hề đáng ngại. Ngay cả ở mức 60-65%, tỷ lệ này cũng không hề quá sức với nền kinh tế đang tăng trưởng tốt và có dự trữ quốc gia tốt trong những năm qua.
“Các nước phát triển như Pháp, Bỉ có tỷ lệ nợ công/GDP lên tới 100%, EU thì xấp xỉ 90%, còn ở Mỹ, tỷ lệ nợ công/GDP không đáng bàn, vì họ thoải mái về vấn đề này”, GS. Cường nói.
Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam 5 năm qua luôn dao động trong khoảng 57-60%. Con số này chỉ đáng lo khi nhảy vọt từ 10% lên 30% hay 60%, còn diễn biến tăng chậm những năm qua tương đối an toàn.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động nặng nề đến kinh tế – xã hội Việt Nam, khiến GDP quý II chỉ tăng 0,36%, còn tính chung 6 tháng là 1,81%, thấp nhất trong 10 năm qua, GS. Cường đ.ánh giá, nới room cho nợ công là điều cần thiết để kích thích tăng trưởng.
Đồng quan điểm, tại Tọa đàm trực tuyến về “Tăng trưởng kinh tế toàn cầu hậu Covid-19 và hàm ý chính sách cho Việt Nam tổ chức chiều 6/7 tại Hà Nội, GS. Philippe Aghion từ Đại học Harvard (Mỹ) nhận định rằng: “Việt Nam không nên quá quan ngại về tỷ lệ nợ công/GDP. Khi tăng trưởng cao mà tỷ lệ nợ công tăng cao thì không vấn đề gì”.
Dẫn học thuyết Keynes, GS. Aghion kiến giải, trong bối cảnh mức cầu và cung vẫn thấp, Việt Nam cần phải kích cả cung lẫn cầu và để làm vậy đòi hỏi phải tăng nợ công lên thì mới thúc được tăng trưởng. Tỷ lệ nợ công/GDP tăng cao không đáng lo, vì Việt Nam đã sẵn dư địa tăng trưởng cao khoảng 7% trong thời gian dài và năm 2020, dù chịu tác động của Covid-19 và nhiều thách thức liên quan, tăng trưởng của Việt Nam vẫn được dự báo đạt 4%. “Đây là những mức tăng trưởng rất tuyệt vời”, ông Aghion nhấn mạnh.
Video đang HOT
Song song với việc nới room nợ công, Việt Nam cần hướng đến kích thích nền kinh tế đồng bộ, vừa tăng đầu tư vào hạ tầng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng dịch vụ công và tận dụng lợi ích của một loạt hiệp định mà Việt Nam đã ký kết và có hiệu lực. Những điều chỉnh trên được hy vọng tạo cú hích để Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng cao hơn so với các nước trong khu vực.
Riêng với tổng cầu thấp do Covid-19, GS. Aghion lưu ý: “Để cứu tổng cầu, cần phải hỗ trợ tích cực cho các ngành theo hai chiều, từ trên xuống, từ dưới lên và ngược lại. Cần xác định rõ mô hình kinh doanh mới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành mô hình kinh doanh mới một cách dễ dàng hơn. Hãy để doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tham gia thị trường một cách dễ dàng nhất để phát huy sáng tạo”.
Thế giới xoay về hợp tác đa phương, Việt Nam vẫn có lợi
Trong nhận định khá thận trọng về kinh tế thế giới, GS. Aghion cho rằng, giữa lúc chưa có khẳng định rõ ràng về vắc-xin ngừa Covid-19, ngay cả khi tháng 1/2021 vắc-xin được bào chế thành công và đưa vào sử dụng rộng rãi, thì kinh tế thế giới phải đến năm 2023 mới có thể phục hồi hoàn toàn.
Bức tranh kinh tế thế giới sắp tới cũng phụ thuộc nhiều vào cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ tháng 11 tới. “Nếu cựu Phó tổng thống Joe Biden thắng trong cuộc đua vào Nhà Trắng, kinh tế thế giới còn có cửa hy vọng cơ chế đa phương toàn cầu được phục hồi”, GS. Aghion nhận định.
Dù biến động kinh tế thế giới ra sao, thì Việt Nam, với đặc tính khôn ngoan và linh hoạt cao, vẫn có rất nhiều lợi thế và cơ hội kinh doanh từ các hiệp định thương mại được ký kết. Hơn nữa, Việt Nam cũng được cộng đồng thế giới đ.ánh giá cao về việc tuân thủ nghiêm “luật chơi” của WTO. Ngoài ra, với thành công trong chống dịch Covid-19, Việt Nam càng có cơ hội trở thành điểm sáng về tăng trưởng kinh tế ở khu vực.
Đối với tăng trưởng dài hạn hậu Covid-19, GS. Aghion nhận định, với quy mô dân số khá lớn, Việt Nam có thể theo kịp tăng trưởng toàn cầu ở nhiều góc độ khác nhau, nếu người lao động được đào tạo bài bản và khuyến khích sáng tạo.
“Những cải cách mở cửa nền kinh tế mà Việt Nam thực hiện từ những năm 1990 là hướng đi đúng cần theo đuổi. Chúng ta không còn nhiều thời gian để bắt kịp xu hướng phát triển của khu vực và thế giới, do đó cần đầu tư mạnh vào giáo dục đại học, cùng với đào tạo nghề, đồng thời tăng độ mở trong tiếp cận giáo dục”, GS. Aghion nhấn mạnh.
Để thúc “cỗ xe tam mã” của nền kinh tế đi lên, tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương diễn ra tuần trước, Thủ tướng Chính Phủ Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu phải dùng mọi biện pháp thúc đẩy cả “ba con ngựa kéo” để đạt mục tiêu tăng trưởng cao nhất, theo tinh thần Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nói chủ trương 1, nhưng các Bộ trưởng, Bí thư, Chủ tịch phải có biện pháp 10 để chủ trương đi vào cuộc sống một cách “quyết liệt, cụ thể”.
Các nền kinh tế lớn nỗ lực thoát khỏi “bóng đen” của đại dịch Covid-19
Để đối phó với đại dịch Covid-19, các nền kinh tế lớn đã đưa ra nhiều biện pháp "giải cứu", tăng sức "đề kháng" để tránh nguy cơ suy thoái nghiêm trọng.
ại dịch Covid-19 đã lan rộng toàn thế giới, đẩy kinh tế toàn cầu đối mặt nguy cơ suy thoái nghiêm trọng. Quỹ T.iền tệ quốc tế (IMF) vừa cảnh báo rằng, tác động của dịch sẽ làm chậm lại đà tăng trưởng kinh tế thế giới, thậm chí có thể rơi vào cuộc khủng hoảng tồi tệ hơn cả khủng hoảng tài chính cách đây hơn chục năm.
Cuộc chiến chống dịch Cobid-19 đang ngày càng quyết liệt trên mặt trận kinh tế. (Ảnh minh họa: fpri.org)
Trước lo ngại đại dịch Covid-19 đang phủ "bóng đen" lên triển vọng kinh tế toàn cầu, Tổng Giám đốc IMF Kristalina Georgieva kêu gọi các nỗ lực ứng phó chung. IMF nhận định, tác động của dịch Covid-19 sẽ làm tăng trưởng kinh tế toàn cầu chững lại, suy giảm dưới mức 2,9% của năm 2019.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) ngày 2/3 đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu xuống chỉ còn 2,4% - mức tăng chậm nhất kể từ năm 2009.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cảnh báo, dịch Covid-19 có thể khiến kinh tế toàn cầu tổn thất đến 2.000 tỷ USD trong năm nay.
UNCTAD nhận định, những nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là những quốc gia phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu dầu thô và những mặt hàng khác, cũng như những nước có quan hệ thương mại mật thiết với Trung Quốc và những quốc gia bị Covid-19 tấn công đầu tiên.
Mới đây, Bloomberg cũng đưa ra 4 kịch bản kinh tế đối với nền kinh tế toàn cầu do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Theo kịch bản tệ nhất, nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản và khu vực đồng euro đều rơi vào suy thoái, tăng trưởng GDP thế giới giảm về mức 0%, sản lượng toàn cầu tổn thất đến 2.700 tỷ USD.
Giới phân tích cho rằng, khủng hoảng dịch bệnh sẽ kéo theo khủng hoảng kinh tế khi các doanh nghiệp đối mặt nguy cơ vỡ nợ, thị trường chứng khoán liên tục chìm trong sắc đỏ.
Nền kinh tế toàn cầu lao đao và đối mặt suy thoái, thị trường chứng khoán rơi tự do. (Ảnh minh họa: Reuters)
Trong bối cảnh nêu trên, hạn chế tác động tiêu cực của dịch về kinh tế đang là ưu tiên hàng đầu của tất cả các nền kinh tế lớn. Tại châu Âu - tâm dịch mới của thế giới hiện nay, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) vừa thông qua gói kích thích kinh tế trị giá 120 tỷ euro nhằm hỗ trợ các nền kinh tế khu vực.
Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Ursula von der Leyen mô tả dịch Covid-19 là "cú sốc" lớn với nền kinh tế châu Âu. Bà cho biết Liêm minh châu Âu (EU) sẽ huy động ít nhất 37 tỷ euro (tương đương 41 tỷ USD) để chống dịch bệnh.
Nền kinh tế số 1 châu Âu là ức cũng tung ra gói cứu trợ kinh tế lớn nhất trong lịch sử hậu chiến của nước này. Theo đó, Chính phủ ức quyết định hỗ trợ 550 tỷ euro cho các công ty mới khởi nghiệp. Để bảo vệ nền kinh tế, Thủ tướng Đức Angela Merkel cho biết bà sẵn sàng đảo ngược quy tắc duy trì ngân sách cân bằng.
Tại nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Tổng thống Donald Trump tuyên bố sẽ đưa ra các biện pháp then chốt nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Cụ thể, Chính phủ Mỹ đang xem xét việc cắt giảm thuế để giúp khuyến khích chi tiêu tiêu dùng và hỗ trợ các hộ gia đình đang gặp khó khăn trong việc trả t.iền thuê nhà và t.iền nợ thế chấp đúng hạn, hay trang trải các chi phí y tế khi số giờ làm việc của các thành viên trong gia đình bị rút ngắn trong thời gian bùng phát dịch bệnh.
Ngày 3/3, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã quyết định hạ lãi suất khẩn cấp để ứng phó với nguy cơ dịch Covid-19 tác động đến nền kinh tế nước này. Đến ngày 15/3, FED lại tuyên bố sẽ cắt lãi suất cơ bản xuống còn từ 0% đến 0,25% - mức thấp nhất kể từ năm 2008 - nhằm tăng sức "đề kháng" cho nền kinh tế Mỹ.
FED vừa thông báo cắt lãi suất cơ bản đồng USD xuống còn từ 0% đến 0,25%. (Ảnh minh họa: KT)
Trung Quốc cũng đã tung ra các biện pháp mới để vực dậy "sức khỏe" cho nền kinh tế số 2 thế giới đang bị tác động bởi đại dịch. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) thông báo sẽ tiến hành cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng có đủ điều kiện từ ngày 16/3. ộng thái này sẽ giúp khơi thông 78,6 tỷ USD từ các khoản dự trữ dài hạn để giúp các ngân hàng trong nước có thêm vốn để "bơm" vào nền kinh tế.
Tại các nền kinh tế lớn khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, các biện pháp "giải cứu" nền kinh tế khỏi nguy cơ suy thoái cũng đã được lên kế hoạch và triển khai. Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đã hối thúc nước này triển khai các biện pháp "chưa từng có" để ứng phó những hậu quả kinh tế của dịch. Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (BoK) đang xem xét tổ chức một cuộc họp khẩn cấp để bàn thảo về khả năng cắt giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Trong khi đó, tại nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới là Nhật Bản, Thủ tướng Shinzo Abe cho biết sẽ xem xét các lựa chọn khác nhau, bao gồm đề xuất tạm thời cắt giảm thuế tiêu dùng để hỗ trợ nền kinh tế.
Theo đ.ánh giá của các chuyên gia kinh tế, thách thức đối với các ngân hàng trung ương lúc này là họ đang cạn kiệt các biện pháp t.iền tệ sau một thời gian dài ứng phó với tác động tiêu cực của các cuộc chiến thương mại, căng thẳng địa chính trị và tác động của lạm phát thấp. Một số người đã kêu gọi các chính phủ điều chỉnh mức chi tiêu, song vấn đề nợ công vẫn là một thách thức.
Các chuyên kinh tế hy vọng rằng một khi dịch Covid-19 được kiểm soát, môi trường lãi suất thấp hơn sẽ tạo ra những khoảng trống để làm dịu đi những khó khăn tài chính của nhiều công ty và giúp nền kinh tế thế giới nhanh chóng phục hồi một khi virus đã được kiểm soát./.
Theo VOV.VN
Tỷ lệ nợ công lên đến 65% có đáng lo ngại? Theo GS. Lê Văn Cường, Giám đốc nghiên cứu danh dự tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS), vay nợ để đầu tư, kích thích tăng trưởng kinh tế và đảm bảo khả năng trả nợ thì không đáng ngại. Chỉ đáng ngại khi vay nợ để tiêu dùng, không tạo dư địa tốt cho tăng trưởng dài hạn....