Tăng tỷ lệ hỗ trợ thanh khoản bằng USD của khu vực ASEAN+3 từ 30% lên 40%
Hôm nay, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Lê Hồng Phong, Hà Nội, đã diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN 3 lần thứ 23 (gọi tắt là AFMGM 3) theo hình thức trực tuyến.
Tham dự hội nghị, bên cạnh các Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương các nước trong khu vực ASEAN 3 còn có sự tham gia của Tổng Thư ký ASEAN, Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Giám đốc khu vực Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Giám đốc Cơ quan Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN 3 (AMRO).
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Minh Hưng đồng chủ trì Hội nghị cùng với Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Tài chính Nhật Bản Aso Taro và Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản Kuroda Haruhiko.
Tại Hội nghị, các Bộ trưởng Tài chính, Thống đốc Ngân hàng Trung ương các nước ASEAN cùng với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, và lãnh đạo các tổ chức tài chính quốc tế đã đối thoại chính sách về tình hình kinh tế vĩ mô toàn cầu và khu vực cũng như các biện pháp nhằm ứng phó trước đại dịch COVID-19.
Các Bộ trưởng và Thống đốc cũng xem xét việc triển khai các sáng kiến hợp tác thuộc Tiến trình hợp tác tài chính ASEAN 3, định hướng chiến lược và các sáng kiến mới của Tiến trình hợp tác tài chính ASEAN 3 và thông qua Tuyên bố chung của Hội nghị.
Thảo luận về triển vọng phát triển kinh tế toàn cầu và khu vực, các Bộ trưởng Tài chính, Thống đốc Ngân hàng trung ương ASEAN 3 và lãnh đạo các tổ chức tài chính quốc tế đã cùng nhau chia sẻ quan điểm về những rủi ro và thách thức do đại dịch Covid-19 gây ra đối với kinh tế toàn cầu và khu vực.
Theo dự báo của IMF, kinh tế toàn cầu năm 2020 sẽ suy giảm 4,9%, trong khi kinh tế khu vực châu Á giảm 1,6%.
Hội nghị chia sẻ về các giải pháp chính sách mà các nền kinh tế khu vực đã và đang triển khai nhằm ngăn chặn đại dịch và phục hồi tăng trưởng kinh tế
Video đang HOT
Hội nghị cũng chia sẻ về các giải pháp chính sách mà các nền kinh tế khu vực đã và đang triển khai nhằm ngăn chặn đại dịch và phục hồi tăng trưởng kinh tế, bao gồm gói các giải pháp về tài khóa, tiền tệ và quy định quản lý hệ thống tài chính.
Các Bộ trưởng và Thống đốc nhận định trong bối cảnh các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, các tác động do đại dịch gây ra đối với chuỗi cung ứng toàn cầu càng trở nên nghiêm trọng.
Điều này đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan quản lý tài chính, tiền tệ trong việc xây dựng, ban hành các biện pháp, chính sách kinh tế vĩ mô kịp thời, hiệu quả nhằm tăng cường khả năng chống chịu của các nền kinh tế trước các cú sốc, qua đó giúp duy trì sự ổn định và toàn vẹn của hệ thống tài chính.
Các đại biểu nhất trí cho rằng hợp tác khu vực, trong đó có hợp tác tài chính, là yếu tố quan trọng giúp các quốc gia tăng cường năng lực phối hợp và ứng phó với các tác động của đại dịch và hỗ trợ phục hồi kinh tế một cách bền vững.
Tại Hội nghị, Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng trung ương ASEAN 3 đã thông qua các nội dung kỹ thuật quan trọng, bao gồm sửa đổi Thoả thuận CMIM (thể thức hỗ trợ thanh khoản bằng USD của khu vực ASEAN 3 với quy mô cam kết lên đến 240 tỷ USD) trong đó có nội dung tăng tỷ lệ tiếp cận chương trình CMIM không gắn với các khoản vay của IMF từ 30% lên 40%.
Chi nhanh, chi dễ và chi đủ
Nhiều cuộc họp của Chính phủ đưa ra chủ trương, giải pháp hồi phục kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân chịu tác động của đại dịch. Thế nhưng, việc thực thi các chủ trương này vẫn còn xa so với điều kỳ vọng. Gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng mới giải ngân được 11.000 tỷ đồng, là minh họa cho việc thực thi những chủ trương của Chính phủ.
Tâm lý của người dân bình tĩnh hơn trong làn sóng thứ 2.
Chính sách đúng nhưng chưa đủ
Kể từ khi dịch bệnh Covid-19 xảy ra đến nay, thế giới đã bước vào làn sóng lây nhiễm thứ 2. Khoảng cách của các làn sóng này ở mỗi nước có sự khác nhau, nhưng quản lý tốt cũng chỉ cách nhau 99 ngày như ở Việt Nam.
Điều này nói lên những thay đổi trong diễn biến dịch bệnh là điều khó lường. Nó đòi hỏi các nhà hoạch định và thực thi chính sách phải thần tốc để ứng phó. Mỗi nước đều đưa ra các gói chính sách đến từng đối tượng khác nhau với những tên gọi khác nhau, nhưng tựu trung vẫn là mở rộng chính sách tài khóa và tiền tệ.
Nhìn vào chỉ báo đo lường tâm lý của con người trong thời gian diễn ra dịch bệnh với các làn sóng lây nhiễm, sẽ hiểu thêm lý do của những gói mở rộng chính sách tài khóa và tiền tệ này.
Thực sự tâm lý của con người đã trở nên ổn định hơn. Làn sóng lây nhiễm thứ nhất cho thấy tâm lý người dân lo sợ, hoảng loạn cao độ, tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế, các ngành đều bị ảnh hưởng. Giai đoạn này không gói kích thích nào có thể vượt qua được "nỗi sợ hãi".
Chính sách hỗ trợ 62.000 tỷ đồng là cần thiết nhưng có lẽ chưa đủ và chi không dễ, nên số giải ngân được không bao nhiêu. Điều này đã gây ra sự suy giảm mạnh trong tăng trưởng kinh tế quý II, thậm chí sang đến quý III.
Trong khi đó, các chính sách sách tiền tệ mới thực hiện được cơ cấu thời hạn trả nợ vay theo kế hoạch của Thông tư 01/2020/TT-NHNN. Tính đến nay, các khoản nợ được cơ cấu lại sẽ bắt đầu vào thời gian trả nợ, vì thời hạn cơ cấu tối đa 12 tháng kể từ khoản nợ phát sinh từ 23-1-2020.
Đây sẽ là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong thời gian tới phải đối mặt với tình trạng nợ xấu. Còn chính sách giảm lãi suất chỉ dừng lại bằng những công cụ bơm tiền trên thị trường mở, có tác động không đáng kể lên lãi suất cho vay.
Các doanh nghiệp đang phải gánh nặng chi phí lãi vay này phát sinh trong khoảng thời gian cơ cấu lại thời gian trả nợ. Áp lực chi trả nợ gốc và tiền lãi sẽ càng gia tăng khi đến hạn trả của Thông tư 01/2020.
Thành phần đóng góp trong tăng trưởng kinh tế các nước.
Không thể phòng thủ, né tránh
Thế giới và Việt Nam bước vào làn sóng lây nhiễm thứ 2, tâm lý của người dân đã bình tĩnh hơn, một số hoạt động kinh tế vẫn diễn ra bình thường hơn. Điều này không có nghĩa sự hồi phục trở lại của nền kinh tế, mà chỉ là diễn tiến tâm lý sợ hãi của người dân. Trong làn sóng lây nhiễm thứ 2, người dân chỉ giảm đi lại và ảnh hưởng vào những ngành như du lịch, vui chơi giải trí, vận tải...
Tâm lý này không mấy bị tác động đối với các hoạt động đi lại, làm việc, cuộc sống của người dân. Báo cáo Google Covid-19 Community Mobility Reports đã cho thấy hành vi tâm lý này của người dân.
Nghĩa là, đối mặt làn sóng lây nhiễm thứ 2, thậm chí có thể là thứ 3 khi chưa có vaccine hữu hiệu phòng ngừa, xu hướng tâm lý cũng sẽ bớt hoảng hốt và thích nghi với bối cảnh dịch bệnh hơn.
Do vậy, nhìn vào xu hướng này để hình thành các chính sách kích thích tiêu dùng, phục hồi sản xuất, thay vì phòng thủ và né tránh trách nhiệm của từng bộ phận của nền kinh tế.
Nhìn vào số liệu tăng trưởng kinh tế đóng góp từ các ngành trong nền kinh tế, cho thấy mức độ sụt giảm trong giá trị đóng góp của các ngành khác nhau (màu xanh là mức đóng góp lớn trong giá trị, màu đỏ mức đóng góp thấp hơn). Có nhiều ngành đã có mức tăng trưởng âm lớn.
Chẳng hạn, đóng góp trong tăng trưởng GDP quý II-2019 ngành công nghiệp 9,24%, nhưng đến quý II-2020 chỉ còn 0,22%. Từ mức đóng góp lớn về giá trị trong GDP quý II năm ngoái, năm nay chỉ còn đóng góp thấp về giá trị, cho thấy sự tổn thất lớn trong sự sụt giảm giá trị của ngành công nghiệp.
Hoặc ngành tài chính ngân hàng tăng trưởng ở mức 8,04% vào quý II-2019, có đóng góp giá trị trong GDP ở mức thấp (màu trắng). Đến quý II-2020 mức tăng trưởng giảm còn 0,27% và giá trị đóng góp trong GDP tụt xuống rất thấp (màu đỏ).
Ngành công nghiệp điện tử có mức tăng trưởng 10,76% và có mức đóng góp giá trị lớn (màu xanh) vào quý II-2019, đến quý II-2020 tăng trưởng âm 0,04% và đóng góp trong giá trị GDP đã giảm nhiều (chuyển sang màu đỏ).
Như vậy, tính cấp thiết phải kích thích kinh tế có tính tập trung vào các thành phần nếu xét theo đóng góp của các ngành kinh tế vào GDP. Cả yếu tố hành vi tâm lý đến tác động của các thành phần kinh tế đòi hỏi các chính sách của Chính phủ phải nhanh, kịp thời; phải dễ dãi trong hỗ trợ và phải đủ để kích thích nhằm duy trì và phục hồi nền kinh tế. Nếu chậm trễ sẽ đưa đến những hệ lụy lớn và gia tăng chi phí cho nền kinh tế sau này.
Hỗ trợ cung mới kích cầu Kích cầu tiêu dùng nội địa được xem là đòn bẩy để kích thích tăng trưởng nền kinh tế sau những tháng suy trầm do tác động từ dịch Covid-19. Trao đổi với ĐTTC, TS. VŨ ĐÌNH ÁNH, nhận xét so với giai đoạn 2009-2010, các biện pháp nhằm kích thích tăng trưởng nền kinh tế hiện nay đồng bộ và toàn diện...