Tăng trưởng xanh – Nền tảng của phát triển bền vững
Nhằm đảm bảo các nguồn tài nguyên, sinh thái khi phát triển kinh tế, Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế (OECD) xem tăng trưởng xanh là giải pháp căn cơ.
Trung tâm Công nghệ Xanh Arnasai giới thiệu khu vườn hữu cơ cho những người tham gia hội thảo đào tạo về ứng dụng công nghệ xanh hồi năm 2016 tại Kazakhstan.
Tăng trưởng xanh (Green Growth), là khái niệm rất gần với kinh tế xanh. Ban đầu, nhiều nhà nghiên cứu thậm chí sử dụng hai cụm từ này và cả “xanh hóa nền kinh tế” để thay thế lẫn nhau. Tuy nhiên, nội hàm của các khái niệm này có một số khác biệt.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Tăng trưởng xanh là hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong việc giảm thiểu ô nhiễm và các tác động môi trường, đồng thời linh hoạt trong khả năng thích ứng với các hiểm họa thiên nhiên, quản lí môi trường và vốn tự nhiên khi phòng chống thiên tai.
Còn theo Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế (OECD), tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời đảm bảo rằng các tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các nguồn tài nguyên và dịch vụ môi trường mà dựa vào đó sức khỏe của con người được cải thiện.
Như vậy, tăng trưởng xanh nhấn mạnh tới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn đảm bảo hài hòa với môi trường sinh thái, trong khi kinh tế xanh chú trọng nhiều hơn tới các giới hạn của môi trường, hạnh phúc của con người và công bằng xã hội. Nói cách khác, kinh tế xanh mang ý nghĩa bao trùm hơn, nhưng trong bối cảnh nhiều nơi trên thế giới vẫn còn nghèo đói thì tăng trưởng xanh là điều kiện cần để tiến tới kinh tế xanh.
Khái niệm tăng trưởng xanh được đề cập chính thức tại Hội nghị Bộ trưởng về Môi trường và Phát triển năm 2005 tại Seoul (Hàn Quốc). Tuy xuất hiện sau khái niệm kinh tế xanh, nhưng hiện nay tăng trưởng xanh lại được biết đến nhiều hơn. Nguyên nhân bởi khái niệm này sớm được cụ thể hóa trong các thỏa thuận song phương, đa phương, từ đó hình thành nên các chiến lược và hành động cụ thể của các quốc gia.
Một số chính sách tiêu biểu về tăng trưởng xanh ở các nước, như: Năm 2008, Hàn Quốc dành 80% trong khoảng 38,1 tỉ USD thuộc gói kích cầu kinh tế để thực hiện Chiến lược Tăng trưởng xanh quốc gia. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 12 (2011 – 2015), Trung Quốc đã dành 140 tỉ USD cho đầu tư xanh. Một số nước khác như Australia, UAE, Nhật Bản, Đan Mạch và Na Uy đã tham gia với Hàn Quốc tạo nên một tổ chức liên chính phủ trong lĩnh vực tăng trưởng xanh.
Tháng 5/2011, OECD đã chuyển giao Chiến lược Tăng trưởng xanh cho nguyên thủ và bộ trưởng của hơn 40 quốc gia. Họ hoan nghênh và coi chiến lược này như một công cụ hữu ích để mở rộng tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm, thông qua sử dụng bền vững hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sử dụng năng lượng hiệu quả. và định giá các dịch vụ hệ sinh thái. Tuyên bố Tăng trưởng xanh được coi như một phần trong ứng phó với khủng hoảng kinh tế.
Video đang HOT
Để đo lường tăng trưởng xanh, OECD sử dụng nhiều chỉ số đánh giá, trong đó những thành tố chính là ô nhiễm không khí, năng suất cacbon, tài nguyên đất, đổi mới xanh, thuế môi trường. Chẳng hạn, Trung Quốc được xếp vào hạng khá trong nỗ lực đổi mới xanh, khi nước này có trung bình khoảng 2,5 triệu bằng sáng chế về môi trường mỗi năm trong giai đoạn từ 2014 – 2016. Tuy vậy, Trung Quốc vẫn bị đặt dấu hỏi về tăng trưởng xanh khi tăng diện tích xây dựng thêm 77% và tăng dân số gần 20% trong giai đoạn từ 1990 – 2014.
Hiện nay, mối quan tâm lớn nhất của cộng đồng thế giới trong tăng trưởng xanh là các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhóm giải pháp chính được nhiều quốc gia ưu tiên là sử dụng năng lượng tái tạo, các bon thấp, đầu tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế người dân gắn với phục hồi môi trường…
Từ góc nhìn, tăng trưởng xanh được mỗi quốc gia cụ thể hóa bằng một chiến lược khác nhau. Có nơi phát triển các bon thấp, nhằm giảm phát thải và giảm tiêu thụ năng lượng. Có nơi lại gắn tăng trưởng xanh với mục tiêu phát triển đô thị thông minh, sinh thái… hình thành thêm một số khái niệm mới như đô thị tăng trưởng xanh.
Dù vẫn còn một số ý kiến trái chiều, đa số các nước trên thế giới đều nhất trí, rằng tăng trưởng xanh gồm 3 lĩnh vực: Tối ưu hóa nguồn tài nguyên và môi trường; các chính sách “Xanh”, và cơ hội phát triển đạt được từ việc xanh hóa nền kinh tế.
Trên cơ sở 3 trụ cột trên, các nước thường đề ra 3 nhóm nhiệm vụ chính trong tăng trưởng xanh: (1) Giảm cường độ phát thải nhà kính và tăng tỷ trọng sử dụng năng lượng tái tạo; (2) Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển sâu, giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tăng cường các ngành công nghiệp sinh thái và dịch vụ môi trường, đổi mới công nghệ; (3) Nâng cao đời sống người dân thông qua việc tạo thêm việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh và xây dựng lối sống hòa hợp với môi trường.
Những năm gần đây, khái niệm “kinh tế tuần hoàn” được nhắc đến như một sự bổ khuyết cho tăng trưởng xanh. 3 nội hàm cơ bản của kinh tế tuần hoàn, là: Tái tạo các hệ thống tự nhiên; tối ưu hóa lợi tức của tài nguyên bằng cách tuần hoàn các sản phẩm và vật liệu nhiều nhất có thể; và thiết kế chất thải và ô nhiễm. Một cách khái quát, tăng trưởng xanh chú trọng nhiều tới ngăn chặn suy thoái môi trường, còn kinh tế tuần hoàn quan tâm tới tuần hoàn vật liệu, và đặt mục tiêu cụ thể là tái tạo các hệ thống tự nhiên.
Trong các diễn giải của UNEP, WB và OECD, tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn là những thành tố cần có để xây dựng kinh tế xanh. Một cách hình tượng, có thể coi tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn là những “viên gạch” cùng làm nên “nền móng” là kinh tế xanh. Trên nền này, “ngôi nhà” có tên “ phát triển bền vững” mới được xây dựng. Đây cũng là định hướng cho sự phát triển nói chung của hầu hết các quốc gia.
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh
Chiến lược đặt ra mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP; phấn đấu đến năm 2030, cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm ít nhất 15% so với năm 2014.
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt "Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050" với mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP; xanh hóa các ngành kinh tế...
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.
*Xanh hóa nền kinh tế
Hộ nông dân Nguyễn Thị Mai Khương ở khóm Tây Khánh 6, phường Mỹ Hòa, TP Long Xuyên được tập huấn kỹ thuật trồng dưa lưới trong nhà màng cho hiệu quả cao, mỗi năm thu hoạch khoảng 12 tấn quả, thu lãi 200 triệu đồng/năm. Ảnh: Vũ Sinh - TTXVN
Chiến lược đặt ra mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP; phấn đấu đến năm 2030, cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm ít nhất 15% so với năm 2014; đến năm 2050, cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm ít nhất 30% so với năm 2014.
Chiến lược đặt ra mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng bền vững để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát huy lợi thế cạnh tranh và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Mục tiêu chủ yếu là đến năm 2030, tiêu hao năng lượng sơ cấp trên GDP bình quân giai đoạn 2021-2030 giảm từ 1,0-1,5%/năm; tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp đạt 15-20%; kinh tế số đạt 30% GDP; tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%; ít nhất 30% tổng diện tích cây trồng cạn có tưới được áp dụng phương pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước.
*Xây dựng lối sống xanh
Chiến lược đặt mục tiêu xây dựng lối sống xanh kết hợp với nếp sống đẹp truyền thống để tạo nên đời sống chất lượng cao hòa hợp với thiên nhiên. Thực hiện đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới bảo đảm các mục tiêu tăng trưởng xanh, bền vững; tạo lập văn hóa tiêu dùng bền vững trong bối cảnh hội nhập với thế giới.
Mục tiêu chủ yếu đến năm 2030, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đạt 95%; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp so với lượng chất thải được thu gom chiếm 10%;
Tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định lần lượt đạt trên 50% đối với đô thị loại II trở lên và 20% đối với các loại đô thị còn lại; tỷ lệ đảm nhận của vận tải hành khách công cộng tại các đô thị đặc biệt, đô thị loại I lần lượt đạt ít nhất 20% và 5%;
Tỷ lệ xe buýt sử dụng năng lượng sạch tại các đô thị đặc biệt đạt ít nhất 15% so với tổng số xe buýt đang hoạt động và tại đô thị loại I đạt 10% số lượng xe buýt mới; tỷ lệ mua sắm công xanh trong tổng mua sắm công đạt ít nhất 35%; ít nhất 10 đô thị phê duyệt và thực hiện Đề án tổng thể về phát triển đô thị tăng trưởng xanh theo hướng đô thị thông minh bền vững.
Chiến lược cũng đặt mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống và khả năng chống chịu của người dân với biến đổi khí hậu, bảo đảm bình đẳng về điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình chuyển đổi xanh.
Mục tiêu chủ yếu đến năm 2030, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,75; 100% các tỉnh, thành phố xây dựng và triển khai Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh; tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch, đạt chuẩn theo quy định của Bộ Y tế đạt ít nhất 70%.
*Định hướng chiến lược
Định hướng chung của Chiến lược là tập trung nỗ lực cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, giảm cường độ phát thải khí nhà kính thông qua khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, tài nguyên dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng xanh, bền vững, xây dựng lối sống xanh, bảo đảm quá trình chuyển đổi xanh theo nguyên tắc, bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Về định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực chủ yếu, Chiến lược định hướng nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt động sản xuất, vận tải, thương mại và công nghiệp; đẩy mạnh khai thác có hiệu quả và tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng của quốc gia.
Phát triển nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, hữu cơ bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp thông qua việc điều chỉnh, chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và áp dụng các quy trình, công nghệ sử dụng tiết kiệm, hiệu quả giống, thức ăn, vật tư nông nghiệp, tài nguyên thiên nhiên...
Chiến lược từng bước hạn chế các ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, tạo điều kiện phát triển các ngành sản xuất xanh mới. Thúc đẩy các ngành kinh tế xanh phát triển nhanh để tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập, làm giàu thêm nguồn vốn tự nhiên;
Thúc đẩy đô thị hóa theo hướng đô thị thông minh, bền vững, có năng lực chống chịu với biến đổi khí hậu, đảm bảo hiệu quả kinh tế-sinh thái, thuận lợi cho phát triển giao thông công cộng, tăng tính hấp dẫn, cạnh tranh và thân thiện môi trường, tiết kiệm thời gian đi lại.../.
Nhân rộng cây cà phê Tây Bắc thông qua phát triển cộng đồng Sơn La là một trong những tỉnh nghèo, nơi đồng bào dân tộc Thái chiếm phần lớn cộng đồng dân tộc sản xuất cà phê ở địa phương. Trường Đại học Tây Bắc đã và đang hợp tác với tỉnh hỗ trợ nông dân nhân rộng diện tích cà phê bền vững, bằng cách hỗ trợ bà con tham gia chuỗi cung ứng...