Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 có thể đạt 2,6%
Báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) sử dụng 2 kịch bản dự báo cho kinh tế Việt Nam năm 2020. Theo đó, tăng trưởng có thể đạt mức 2,1% theo kịch bản 1 và 2,6% trong kịch bản 2.
Ngày 10/7, với sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo “Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2020: Tinh thần kiến tạo trong bối cảnh bình thường mới”. Tại đây, những ảnh hưởng liên quan đến kinh tế trước đại dịch Covid-19 được nhiều chuyên gia phân tích.
Sức chống chịu của kinh tế Việt Nam đã tốt hơn rất nhiều
Chia sẻ tại Hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh – Viện trưởng CIEM cho biết, Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển, dựa đáng kể vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, do vậy, chịu nhiều hệ lụy cả trực tiếp và gián tiếp từ đại dịch Covid-19. Nền kinh tế thể hiện ở suy giảm tăng trưởng, xuất khẩu tăng chậm dần, hoạt động của doanh nghiệp, tình hình lao động – việc làm.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ cũng đã quyết liệt chỉ đạo thực hiện mục tiêu kép, vừa phòng chống dịch vừa hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, kích thích phục hồi kinh tế. Dư địa điều hành tài khóa và tiền tệ vẫn còn để có thể ứng phó với các kịch bản kinh tế trong thời gian tới. “So với nhiều năm trước, đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 – 2009, thì kinh tế Việt Nam những năm gần đây đã thể hiện sức chống chịu tốt hơn rất nhiều”, Viện trưởng CIEM nhận định.
Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp (CIEM) đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 và các biện pháp phòng chống đã kéo theo hệ lụy nghiêm trọng chưa từng thấy đối với nhiều ngành, hoạt động kinh tế (như du lịch, giao thông vận tải, thương mại, xuất nhập khẩu, đầu tư, tài chính…). Nhiều tổ chức quốc tế đồng loạt hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020, với những đánh giá ở mức độ rất nghiêm trọng. Trong bối cảnh ấy, kinh tế Việt Nam cũng gặp khó khăn nghiêm trọng.
Video đang HOT
Cũng theo ông Nguyễn Anh Dương, các số liệu được công bố đến tháng 6 có thể chưa phản ánh đầy đủ những hệ lụy nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 đến kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam. Nguyên nhân có thể do chính phủ nhiều nước (kể cả Việt Nam) đã sớm ban hành những biện pháp hỗ trợ, hoặc do đại dịch mới diễn ra trong thời gian ngắn nên chưa thể nhìn nhận và đánh giá các tác động của đại dịch một cách đầy đủ.
2 kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2020
Cũng tại Hội thảo, Báo cáo của CIEM do ông Nguyễn Anh Dương – Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp của CIEM trình bày đã đưa ra 2 kịch bản dự báo cho kinh tế Việt Nam năm 2020. Theo đó, tăng trưởng có thể đạt mức 2,1% theo kịch bản 1, và 2,6% trong kịch bản 2. Xuất khẩu cả năm dự báo giảm 3,1% trong kịch bản 1 và giảm 1,9% trong kịch bản 2 (so với năm 2019). Thặng dư thương mại dự báo tương ứng ở các mức 1,7 tỷ USD và 2,1 tỷ USD. Lạm phát bình quân năm 2020 lần lượt đạt 4,3% và 4,5%.
Bên cạnh việc đưa ra những dự báo tăng trưởng, báo cáo của CIEM cũng tập trung phân tích những diễn biến của đại dịch COVID-19, những phản ứng chính sách của Việt Nam nhằm ngăn chặn và ứng phó hiệu quả với hệ lụy của đại dịch. Việt Nam đã tạo dựng được niềm tin của người dân, doanh nghiệp đối với công tác phòng chống dịch, đặc biệt trên phương diện điều hành gắn với “mục tiêu kép”.
Tuy được đánh giá cao về kết quả phòng chống dịch và có cơ hội phục hồi kinh tế sớm, nhưng báo cáo của CIEM vẫn đưa ra khuyến cáo rằng, Việt Nam cần thận trọng trong đánh giá tình hình các tháng cuối năm, đồng thời thực hiện các nhóm giải pháp phù hợp để vừa thúc đẩy phục hồi kinh tế, giữ mạch cải cách, và bảo đảm an sinh xã hội.
Dự kiến trong 6 tháng cuối năm 2020, kinh tế Việt Nam có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như kinh tế thế giới còn rất bất định, đặc biệt là khả năng bùng phát lần thứ hai của dịch Covid-19; việc nhiều nền kinh tế thực hiện các gói hỗ trợ quy mô lớn, trong khi thiếu điều phối ở cấp độ toàn cầu, có thể gây ra những rủi ro không nhỏ đối với thị trường tài chính thế giới và tình trạng nợ toàn cầu. Căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể diễn biến phức tạp hơn.
Bên cạnh đó, dù kỳ vọng nhiều vào tác động tích cực của EVFTA, Việt Nam có thể phải đối mặt với các vụ kiện phòng vệ thương mại, điều tra chống lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ,… ở một số thị trường và mức độ thích ứng của doanh nghiệp đối với thị trường trong nước có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ trong bối cảnh đại dịch COVID-19.
Đại dịch Covid-19 vẽ lại tương lai châu Á
Cuộc khủng hoảng do đại dịch Covid-19 gây ra lần này được đánh giá tồi tệ hơn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, khi đó, châu Á là khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Du lịch là một trong những ngành đầu tiên bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. (Nguồn: Getty Images)
Đây thực sự lại là một cú sốc kinh tế nặng nề, tăng trưởng tại châu Á dự báo đóng băng ở mức 0% trong năm 2020, thấp nhất trong gần 60 năm qua, so với mức tăng trưởng 4,7% trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 hay 1,3% trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997.
Bên cạnh tác động của các biện pháp kiểm soát dịch bệnh trong nước và giãn cách xã hội, có 2 yếu tố chính đang định hình tương lai của châu Á, đó là, sự suy thoái của kinh tế toàn cầu và sự suy giảm mạnh của kinh tế Trung Quốc.
Kinh tế toàn cầu dự kiến sụt giảm 3% trong năm 2020. Đây là sự suy thoái đồng bộ do các nền kinh tế trên thế giới đồng loạt đóng cửa. Các đối tác thương mại chính của châu Á bị dự báo ít nhiều đều gặp những khó khăn nhất định, thậm chí trầm trọng, trong đó kinh tế Mỹ có thể sụt giảm 6%, châu Âu giảm khoảng 6,6%.
Mức tăng trưởng của nền kinh tế thứ hai thế giới - Trung Quốc dự tính giảm từ 6,1% trong năm 2019 xuống 1,2% trong năm 2020.
Nhưng theo phân tích của các chuyên gia thuộc Tổ chức Tiền tệ Quốc tế (IMF), nếu các biện pháp kiểm soát dịch bệnh và chính sách kích thích tăng trưởng có hiệu quả thì kinh tế châu Á dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trở lại, thậm chí mạnh hơn thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, hiện tại mỗi quốc gia châu Á đang trải qua các giai đoạn khác nhau của đại dịch Covid-19. Trong khi nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu hoạt động trở lại thì các nền kinh tế khác vẫn còn đóng cửa, một số nước phải trải qua làn sóng thứ hai của dịch bệnh. Bởi vậy, triển vọng kinh tế châu Á vẫn phụ thuộc nhiều vào sự phát tán của virus gây bệnh Covid-19 trong khu vực và hiệu quả của chính sách mà mỗi nước quyết định thực thi.
Giới chuyên gia đều có chung nhận định, khủng hoảng lần này không giống bất kỳ cuộc khủng hoảng nào trước đây trong lịch sử, do đó cần triển khai các chính sách ứng phó toàn diện và đồng bộ. Trước tiên, cần ưu tiên hỗ trợ ngành y tế để tăng khả năng kiểm soát dịch bệnh, đồng thời triển khai các biện pháp giảm lây nhiễm.
Trên thực tế, IMF cho rằng, các biện pháp kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh đã và đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, trong đó hộ gia đình và doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất từ dịch bệnh cần được hỗ trợ.
Các thị trường tài chính trong khu vực cũng đã cảm nhận gánh nặng từ tác động của đại dịch Covid-19. Bởi vậy, chính sách tiền tệ cần được triển khai khéo léo nhằm tăng khả năng thanh khoản, giảm căng thẳng tài chính cho các ngành công nghiệp và doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời có thể tạm thời nới lỏng các chính sách vĩ mô. Nếu cần thiết, có thể tìm đến sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức đa phương hoặc can thiệp thị trường ngoại hối và kiểm soát vốn.
Hiện các nền kinh tế châu Á đã và đang triển khai một số sáng kiến theo hướng này như: hỗ trợ trực tiếp ngành y tế, các gói kích thích tài khóa và nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các ngân hàng trung ương trên khắp châu lục đã tăng cường tính thanh khoản và cắt giảm lãi suất. Chẳng hạn, Ngân hàng Nhật Bản mở rộng hoạt động mua lại, phối hợp với các ngân hàng trung ương trên thế giới nhằm đảm bảo sự hoạt động của thị trường và đưa ra các biện pháp tạo thuận lợi cho tài chính doanh nghiệp.
Kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát, IMF đã đưa ra một số công cụ giúp các thành viên vượt qua khủng hoảng và hạn chế tổn thất về kinh tế và con người. Hơn 15 quốc gia trên khắp khu vực đã quan tâm đến hai công cụ tài chính khẩn cấp của IMF là Thấu chi tín dụng khẩn cấp (Rapid Credit Facility - RCF) và Chương trình hỗ trợ tài chính nhanh (Rapid Financing Instrument - RFI). Đường dây Thanh khoản Ngắn hạn cũng đã được thiết lập và là một phần của mạng lưới tài chính an toàn toàn cầu của IMF.
Chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) Yasuyuki Sawada, nhận định: "Các thị trường tài chính trong khu vực đang cảm nhận gánh nặng từ tác động của đại dịch Covid-19, với dòng vốn đầu tư nước ngoài và các hoạt động trong lĩnh vực này giảm sút, cộng thêm các vấn đề thương mại đang tiếp diễn. Những nỗ lực nhằm giảm tác động tiêu cực của đại dịch thông qua các gói kích thích kinh tế và biện pháp tiền tệ để hỗ trợ các hộ gia đình, doanh nghiệp và thị trường tài chính bị ảnh hưởng cần được triển khai quyết liệt".
Khánh Linh
Thúc đẩy tăng trưởng quyết liệt như chống dịch Trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp, việc Việt Nam tiếp tục duy trì tăng trưởng, không rơi vào tăng trưởng âm được xem là thắng lợi. Thi công dự án công trình đầu tư du lịch tại huyện đảo Phú Quốc. Ảnh: Lê Huy Hải/TTXVN. Quốc hội vừa thống nhất chưa điều chỉnh các mục tiêu kinh tế - xã hội năm...