Tăng cường bản lĩnh chính trị của Đảng trong thời kỳ mới
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thể hiện rõ vai trò và không ngừng rèn luyện, tăng cường bản lĩnh chính trị.
Những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử trọng đại của Đảng ta và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng giành được trong 85 năm qua là kết quả của nhiều nhân tố. Trong đó, một nhân tố quyết định là Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thể hiện rõ vai trò và không ngừng rèn luyện, tăng cường bản lĩnh chính trị.
1. Bản lĩnh chính trị của Đảng được thể hiện trên nhiều phương diện: chủ động sáng tạo hoạch định chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn, quyết tâm tổ chức thực hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng; kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập hợp đông đảo, tổ chức chặt chẽ và phát huy cao độ sức mạnh của các lực lượng cách mạng; đấu tranh trường kỳ, gian khổ và sáng tạo trước kẻ thù; nhận diện đúng và dũng cảm vượt lên những sai lầm, khuyết điểm…
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu tại Đại hội Đảng VI – Đại hội “Đổi mới” của Việt Nam, diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15-18/12/1986 với chủ đề “Hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để”.
Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện rõ nhất trong những hoàn cảnh lịch sử hết sức khó khăn, hiểm nghèo, tưởng chừng khó có thể vượt qua. 85 năm qua, đã nhiều lần tình huống như vậy xuất hiện:
Thứ nhất, ngay khi ra đời, Đảng lập tức lãnh đạo nhân dân tiến hành cao trào cách mạng 1930-1931 (với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh). Thực dân Pháp và tay sai đã thẳng tay khủng bố phong trào cách mạng. Hàng vạn chiến sỹ cộng sản và quần chúng yêu nước bị bắt, tù đày và giết hại, trong đó có cả đồng chí Tổng Bí thư của Đảng. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị thực dân Anh cấu kết với thực dân Pháp bắt giam ở Hương Cảng.
Hệ thống tổ chức của Đảng bị phá vỡ nghiêm trọng. Trong hoàn cảnh đó, đa số đảng viên của Đảng vẫn giữ vững khí tiết người cộng sản. Ngay trong nhà tù đế quốc, các chiến sỹ cộng sản vẫn tổ chức huấn luyện nâng cao lý luận. Nhiều tổ chức đảng và đảng viên kiên cường bám trụ hoạt động, tiếp tục lãnh đạo phong trào.
Tháng 3/1935, Đảng tiến hành Đại hội lần thứ nhất, đánh dấu thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng. Cuộc đấu tranh thể hiện rõ bản lĩnh của Đảng ta trước một thách thức nghiêm trọng ngay trong những năm tháng đầu tiên vừa thành lập.
Thứ hai, năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, trong hoàn cảnh vừa giành được chính quyền, chưa có kinh nghiệm cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh với “giặc đói,” “giặc dốt” và giặc ngoại xâm.
Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc,” bản lĩnh của Đảng thể hiện rõ trong việc lãnh đạo công cuộc kháng chiến và kiến quốc; vừa kiên quyết giữ vững nguyên tắc và đường lối chiến lược, vừa mềm dẻo về sách lược trong đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài.
Nhờ vậy, nội lực cách mạng được tăng cường về mọi mặt, các thế lực phản động bị trấn áp,… tạo điều kiện để ta tập trung đấu tranh vào kẻ thù chính là Pháp.
Từ hoàn cảnh phải tuyên bố “tự giải tán,” thực chất là rút vào hoạt động bí mật song, sau một thời gian ngắn ra hoạt động công khai, Đảng vẫn không ngừng lớn mạnh, lãnh đạo cả nước tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân chống thực dân Pháp.
Thứ ba, từ giữa những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ 20, tình hình quốc tế và trong nước diễn biến phức tạp: Đảng mắc phải sai lầm trong cải cách ruộng đất, đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta; trong các nước xã hội chủ nghĩa có những bất đồng.
Trong hoàn cảnh đó, bản lĩnh của Đảng lại được khẳng định khi dũng cảm thừa nhận sai lầm, kiên quyết sửa sai trong cải cách ruộng đất, xác định tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối đã vạch ra chính xác con đường để toàn dân tộc làm nên thắng lợi lịch sử mùa Xuân 1975, giành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Thứ tư, dám nhìn thẳng vào sự thật, chủ động đổi mới tư duy, kiên định lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) khởi xướng công cuộc đổi mới, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (năm 1989) đề ra nguyên tắc cơ bản bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những nguyên tắc này thể hiện rõ sự vững vàng, bản lĩnh chính trị và sự nhạy cảm chính trị của Đảng trước những diễn biến rất phức tạp của tình hình trong nước và thế giới.
Thứ năm, cuối thập niên 80 và những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, trong khi công cuộc đổi mới đạt một số kết quả bước đầu, kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn cũng là lúc chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô, tác động toàn diện và mạnh mẽ đến cách mạng nước ta.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) tiếp tục khẳng định, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Video đang HOT
Với bản lĩnh chính trị vững vàng, bằng những chủ trương kịp thời và chính xác, Đảng bình tĩnh và kiên quyết lãnh đạo nhân dân giữ vững ổn định chính trị, vượt qua những thử thách gay gắt khi đó.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới và nắm bắt sâu sắc lý luận, Đại hội XI của Đảng (năm 2011) bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm sáng rõ hơn nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thị sát tàu ngầm Kilo 636 mang tên “Hà Nội” của Hải quân Việt Nam. Cùng với những bước tiến tích cực về kinh tế – xã hội, Việt Nam ngày càng củng cố tiềm lực quốc phòng an ninh và thế trận quốc phòng toàn dân.
2. Như vậy, nhờ có bản lĩnh chính trị vững vàng mà Đảng ta đã vượt qua những thách thức tưởng chừng không thể vượt qua.
Đảng ta có được bản lĩnh chính trị vững vàng bởi trong mọi hoàn cảnh Đảng luôn vững tin vào sự đúng đắn, tính khoa học, tinh thần bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được hiện thực hóa trong mọi mặt của đời sống xã hội, dù đã trải qua nhiều thăng trầm, khó khăn, thách thức; bởi Đảng luôn vững tin ở sức mạnh của nhân dân, sẵn sàng đấu tranh gian khổ vì quyền lợi của nhân dân và biết cách tập hợp, phát huy sức mạnh của nhân dân.
Có được bản lĩnh vững vàng còn nhờ Đảng không ngừng rèn luyện ý chí cách mạng, tinh thần đấu tranh, củng cố và đổi mới tổ chức, tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Qua các chặng đường cách mạng, Đảng kịp thời và nghiêm túc đúc kết kinh nghiệm, qua đó rèn luyện bản lĩnh và ý chí cách mạng cho đảng viên và quần chúng, chủ động trước các tình huống mới, sẵn sàng đối mặt với những thách thức.
Bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng còn biểu hiện và có nguyên nhân từ việc Đảng luôn quan tâm tự đổi mới và chỉnh đốn; nghiêm túc nhìn nhận và kiên quyết đấu tranh với những tồn tại, hạn chế trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối; kiên trì đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực trong Đảng.
Qua đó, Đảng không ngừng tự hoàn thiện mình, tăng cường sự trong sạch và vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Công cuộc đổi mới của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đầy bản lĩnh và sáng tạo của Đảng đã thu được nhiều thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy vậy, Đảng ta và nhân dân ta vẫn đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức không nhỏ, khó lường.
Đó là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, sự phai nhạt bản lĩnh chính trị, không kiên định lập trường, quan điểm, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Cầu Thuận Phước (Đà Nẵng) bắc qua hai bờ sông Hàn, nối liền hai tuyến đường ven biển Nguyễn Tất Thành và Hoàng Sa-Trường Sa, tạo thành hệ thống tuyến giao thông liên hoàn ven biển từ hầm Hải Vân đến bán đảo Sơn Trà và nối liền với tuyến du lịch Sơn Trà – Hội An (Quảng Nam). (Ảnh: TTXVN)
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang tiến hành có biểu hiện phát triển thiếu tính bền vững. Quốc phòng, an ninh vẫn tiềm ẩn không ít bất ổn. Các thế lực thù địch vẫn chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta một cách quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, nham hiểm. Những nguy cơ đó tiếp tục thử thách bản lĩnh của Đảng.
Với bản lĩnh vững vàng của một Đảng cách mạng, lại được toàn dân ủng hộ, nhất định Đảng ta sẽ vững tay chèo đưa dân tộc đến đích cuối cùng là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Theo Vietnam Plus
"Điện Biên Phủ là bài học về tinh thần tự cường dân tộc"
"Đó là bài học về tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa chống giặc đói, giặc dốt, vừa chống giặc ngoại xâm, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù cho chúng có mạnh tới đâu".
Xin giới thiệu toàn văn Diễn văn của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Lễ Mít tinh, diễu binh, diễu hành kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2014).
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đồng chí lão thành cách mạng, các mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh hùng lực lượng vũ trang, các vị khách quốc tế và quý vị đại biểu,
Thưa đồng bào và chiến sĩ cả nước,
Hôm nay, tại thành phố Điện Biên lịch sử, nơi 60 năm trước đây diễn ra trận quyết chiến ròng rã 56 ngày đêm, chúng ta cùng nhau họp mặt để kỷ niệm lần thứ 60 Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi xin gửi tới đồng bào và chiến sỹ cả nước, toàn thể cán bộ, chiến sỹ, bà con các dân tộc tỉnh Điện Biên cùng các vị khách quý có mặt tại đây lời chúc mừng nồng nhiệt và những tình cảm thân thiết nhất.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phát biểu trước khi bắt đầu lễ diễu binh (ảnh: TTXVN).
Trong giờ phút trọng thể này, chúng ta thành kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, Người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chúng ta tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng tư lệnh Quân đội, trực tiếp là Chỉ huy trưởng, Bí thư Đảng ủy Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chúng ta mãi mãi khắc ghi công ơn to lớn của các tướng lĩnh, cán bộ, chiến sỹ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và quân dân cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các đồng chí lão thành cách mạng, các mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh hùng, liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, cùng toàn thể đồng bào, chiến sĩ cả nước đã đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến trường kỳ vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Trong niềm tự hào và xúc động sâu sắc, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi xin gửi đến các đồng chí cựu chiến binh, thanh niên xung phong, dân công, các đồng chí thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có người tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lời thăm hỏi ân cần, những tình cảm chân thành, sâu sắc nhất.
Thưa đồng bào và chiến sĩ cả nước!
Thưa các vị khách quý!
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một bản anh hùng ca bất hủ bắt nguồn từ truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc ta, từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân và ý chí quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc của quân và dân ta.
Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, thực dân Pháp dã tâm dùng vũ lực hòng đặt lại ách thống trị trên đất nước ta một lần nữa. Với ý chí "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", toàn thể nhân dân Việt Nam đã nhất tề hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ với niềm tin tất thắng. Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, quân dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Để cứu vãn tình thế thất bại, bước vào Thu - Đông 1953, thực dân Pháp với sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Na-va, tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh ở Việt Nam nhằm giành thắng lợi có tính quyết định về quân sự trong vòng 18 tháng.
Nhận rõ thủ đoạn đó của quân xâm lược, cuối tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, phân tích sâu sắc thế chiến lược giữa ta và địch, đề ra phương châm chiến đấu: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt. Thực hiện kế hoạch đó, cả nước ra trận, các chiến trường đồng loạt tiến công, giáng cho địch nhiều thất bại nặng nề, buộc chúng phải co cụm, bị động đối phó trên khắp các chiến trường Bắc bộ, Trung bộ, Tây nguyên, Nam bộ, Thượng và Hạ Lào, Đông Bắc Cam-pu-chia; lực lượng cơ động mà Na-va tập trung xây dựng đã bị xé nhỏ thành nhiều mảnh. Thất bại và bị động, quân viễn chinh Pháp gấp rút điều động các đơn vị cơ động nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ - vị trí có ý nghĩa chiến lược không chỉ đối với Tây Bắc Việt Nam mà cả vùng Thượng Lào và Bắc Đông Dương; xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất với ý đồ thách thức quân, dân ta, nghiền nát quân chủ lực của ta. Điện Biên Phủ đã trở thành điểm quyết chiến của Kế hoạch Na-va.
Nắm chắc mọi âm mưu, hành động của địch, phân tích, đánh giá tình hình một cách khoa học, đầu tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân uỷ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đây là một chiến dịch lịch sử có ý nghĩa quân sự, chính trị, ngoại giao rất quan trọng và dặn dò Đại tướng Võ Nguyên Giáp trước khi Đại tướng ra mặt trận: phải đánh thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh. Trong chiến dịch lịch sử này, Trung ương Đảng, Chính phủ, Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng tư lệnh đã tổ chức, động viên một lực lượng to lớn sức người, sức của của nhân dân Việt Bắc, Tây Bắc, đồng bằng và Trung du Bắc Bộ, Liên khu Bốn đóng góp cho mặt trận. Hàng vạn người vượt qua muôn vàn gian khó, ngày đêm bạt rừng xẻ núi, mở hàng ngàn km đường giao thông cho bộ đội, dân công chuyển quân, kéo pháo, vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, lập nên biết bao kỳ tích. Trên khắp các chiến trường, từ Bắc tới Nam, cả ở các vùng địch còn tạm chiếm, quân và dân ta đã liên tục tiến công, hợp đồng tác chiến với Điện Biên Phủ, không cho địch tập trung binh lực tiếp viện, giải cứu cho Điện Biên Phủ.
Trên chiến trường Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy chiến dịch, Đảng uỷ Mặt trận, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khi thực hiện sự chỉ đạo chiến lược và phương châm đánh địch đúng đắn của Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng quân ủy, đã sáng suốt quyết định thay đổi phương châm tác chiến từ "Đánh nhanh, giải quyết nhanh" chuyển sang "Đánh chắc, tiến chắc" vào ngay trước giờ chiến dịch mở màn, thể hiện tài thao lược, tinh thần trách nhiệm cao và lòng quả cảm, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của toàn dân, toàn quân. Sau 56 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm của địch vào đúng ngày này 60 năm trước. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Trải qua 9 năm trường kỳ kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan ý chí xâm lược của các thế lực thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời phải công nhận độc lập của Lào, Campuchia, rút quân khỏi 3 nước Đông Dương. Một nửa nước ta được hoàn toàn giải phóng, mở ra thời kỳ cách mạng mới, xây dựng miền Bắc trong hòa bình, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn, vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; là chiến thắng của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội; của đường lối kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, biết đánh và biết thắng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu thuỷ chung, son sắt của quân và dân 3 nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, cũng là chiến thắng chung của các dân tộc bị áp bức trên thế giới, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới, cổ vũ và góp phần quan trọng vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, nhân dân ta đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, sự giúp đỡ quý báu của Nhà nước, nhân dân Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các dân tộc bị áp bức ở Châu Á, Châu Phi, Mỹ La tinh và phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp. Đảng, Nhà nước, nhân dân ta mãi mãi ghi nhớ, biết ơn về sự ủng hộ, giúp đỡ hết sức quý báu đó.
Lễ diễu binh tại sân vận động trung tâm thành phố Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ làm sáng ngời chân lý: Một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, nếu có một Đảng Mác xít chân chính lãnh đạo, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ, thì nhất định đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, dù kẻ thù đó mạnh hơn nhiều lần.
Thời gian đã lùi xa, nhưng Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu mãi mãi là một mốc son chói lọi trong lịch sử và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ, động viên to lớn, đồng thời để lại nhiều bài học quý giá đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.
Đó là bài học về tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa chống giặc đói, giặc dốt, vừa chống giặc ngoại xâm, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù cho chúng có mạnh tới đâu.
Bài học về phát huy tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Bài học về phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và sáng tạo, tìm tòi, xác định đúng đường lối cách mạng và nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Bài học về xây dựng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Thưa đồng bào và chiến sĩ cả nước!
Thưa các vị khách quý!
Đất nước ta sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện; thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước được nâng lên; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển , đảo của Tổ quốc và chế độ Xã hội chủ nghĩa; vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới được nâng cao. Những thành tựu đó tạo ra những tiền đề thuận lợi cho sự phát triển đất nước những năm sắp tới.
Tuy nhiên, những thành tựu chúng ta đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của đất nước. Kinh tế phát triển còn chậm và chưa bền vững; chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; việc huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho phát triển còn hạn chế. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường còn nhiều bất cập; một số mặt còn yếu kém, chậm được giải quyết, trở thành vấn đề bức xúc trong xã hội... Những hạn chế, yếu kém đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa và những diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới và khu vực, đặt ra những khó khăn, thách thức không nhỏ đối với đất nước ta.
Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải phát huy bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam và tinh thần Điện Biên Phủ, phát huy cao độ nội lực có ý nghĩa quyết định, tranh thủ ngoại lực có ý nghĩa quan trọng, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, lập nên những kỳ tích mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực, tự cường, quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ cần được phát huy cao độ trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, làm cho non sông Việt Nam "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Một dân tộc từng làm nên Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu và Đại thắng mùa Xuân 1975, nhất định có đầy đủ tinh thần và lực lượng, tài năng và nghị lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên văn minh, hiện đại.
Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi sóng to, gió cả đi đến bến bờ vinh quang, chúng ta cần phải thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" gắn với thực hiện đạt hiệu quả thiết thực Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; kiên quyết đấu tranh đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và trong xã hội; chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ Xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ, tự hào về các lực lượng vũ trang nhân dân, về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, chúng ta cần ra sức xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Uống nước nhớ nguồn, Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta cần quan tâm, chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần các mẹ Việt Nam Anh hùng, gia đình liệt sĩ, anh chị em thương binh, bệnh binh, cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, người có công với nước; chăm lo, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống đồng bào vùng căn cứ cách mạng trước đây và vùng biên giới, hải đảo của Tổ quốc, trong đó, đặc biệt là nhân dân các dân tộc vùng Tây Bắc đã trực tiếp đóng góp sức người, sức của cho Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Vận dụng bài học kinh nghiệm của Chiến thắng Điện Biên Phủ về phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại trong công cuộc đổi mới, chúng ta cần tiếp tục thực hiện nhất quán, có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; nâng cao hơn nữa vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ trong không khí cả nước đang ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; phát huy truyền thống và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài đồng tâm, hiệp lực, tận dụng vận hội, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu cao cả dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chiến thắng Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào, là nguồn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước tiến lên.
Tinh thần Chiến thắng Điện Biên Phủ muôn năm!
Theo TTXVN
Đảng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH Cương lĩnh của Đảng đã xác định rõ mục tiêu chiến lược: "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập", "để đi tới xã hội cộng sản". Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo;...