Tăng 7 bậc, chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam lọt top 25 thế giới
Báo cáo đánh giá về môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2020 mới được công bố, chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam đã tăng 7 bậc so với năm trước và nằm trong nhóm 25 quốc gia có điểm cao nhất, góp phần tích cực vào việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Kết quả này cũng là sự phản ánh khách quan về nỗ lực của ngành Ngân hàng trong việc quyết liệt, nỗ lực thực hiện đồng bộ các giải pháp để góp phần cải thiện chỉ số tiếp cận tín dụng,tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn.
Hai lĩnh vực của Việt Nam được WB đánh giá có cải cách, giúp việc kinh doanh dễ dàng hơn là Vay vốn và Nộp thuế.
Trong đó chỉ số tiếp cận tín dụng là một trong 5 chỉ số (trên 10 chỉ số đánh giá) được nâng hạng trong năm nay.
Cụ thể, chỉ số tiếp cận tín dụng Việt Nam ở mức 25/190 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 07 bậc so với năm 2019 và đứng thứ 02 trong ASEAN và thứ 02 trong khu vực Châu Á (chỉ sau Brunei – hạng 1/190), cao hơn khu vực châu Á Thái Bình Dương và các nước có thu nhập cao khu vực OECD.
Chỉ số tiếp cận tín dụng bao gồm hai chỉ số thành phần là chỉ số quyền năng pháp lý và chỉ số chiều sâu và chiều rộng thông tin tín dụng.
Chỉ số quyền năng pháp lý được đánh giá theo thang điểm từ 0-12, điểm càng cao phản ánh mức độ thuận lợi pháp lý để bảo vệ cho quyền của người vay và người cho vay có bảo đảm.
Chỉ số chiều sâu thông tin tín dụng được đánh giá theo thang điểm từ 0-8, phản ánh phạm vi và mức độ dễ dàng trong việc tiếp cận tín dụng của cá nhân và doanh nghiệp.
Bảng xếp hạng thường niên về môi trường kinh doanh lần thứ 17 của nhóm WB đã ghi nhận Việt Nam đạt điểm tối đa của tiêu chí Chiều sâu thông tin tín dụng (8/8 điểm) tại cấu phần phân phối dữ liệu từ các nhà bán lẻ, góp phần cải thiện Chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam đạt 80 điểm trên thang điểm 100, tăng 5 điểm so với năm 2019.
Cụ thể, Ngân hàng Thế giới đã ghi nhận CIC đã tích hợp các thông tin từ các nhà bán lẻ vào báo cáo tín dụng của CIC, giúp các tổ chức tín dụng có thêm nguồn thông tin để đánh giá khách hàng vay với lịch sử thanh toán ngoài hệ thống ngân hàng truyền thống.
Video đang HOT
Báo cáo cũng đưa ra đánh giá Việt Nam tiếp tục cải thiện độ phủ thông tin tín dụng công đạt 59,4%/dân số trưởng thành (tăng 4,6% so với năm 2019).
Theo ông Lê Anh Tuấn, Trưởng Phòng nghiên cứu phát triển, Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC): “Chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam là một điểm sáng trong nỗ lực triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết 01, 02 năm 2019 của Chính phủ góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Chỉ số này thể hiện sự quyết tâm của Ngân hàng Nhà nước trong việc chỉ đạo các Tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp được tiếp cận tín dụng công bằng, minh bạch.
Đồng thời thể hiện sự nỗ lực của Trung tâm Thông tín dụng Quốc gia Việt Nam trong việc mở rộng các nguồn dữ liệu thay thế, đáp ứng yêu cầu thông tin của các Tổ chức tín dụng, khẳng định là trụ cột quan trọng của cơ sở hạ tầng tài chính quốc gia”.
Kết quả trên cũng phẩn nào phản ánh khá rõ nét về sự nỗ lực của ngành Ngân hàng trong hoạt động cải cách hành chính, trong đó 4 lần liên tiếp NHNN đứng đầu các Bộ, ngành, địa phương về chỉ số cải cách hành chính.
Để duy trì và tiếp tục cải thiện thứ bậc xếp hạng trong báo cáo đánh giá của WB thời gian tới, các chuyên gia cho rằng, cùng với sự nỗ lực của ngành ngân hàng, cần có sự nỗ lực, vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt hơn của các Bộ, ngành chức năng trong việc cải thiện chỉ số Quyền năng pháp lý, tức là bảo vệ quyền của người vay và người cho vay có bảo đảm và pháp luật về phá sản.
Lam Sơn
Theo Tinnnhanhchungkhoan.vn
Hai năm liên tiếp tụt hạng, thách thức mục tiêu top đầu khu vực
Xếp hạng về môi trường kinh doanh Việt Nam nhìn từ xếp hạng mới nhất của Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam chỉ tiến bộ ít, trong khi các nước tiến rất nhanh.
2 năm liên tục tụt hạng dù tăng điểm nhẹ
Ngày 24/10/2019, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố kết quả xếp hạng Môi trường kinh doanh Doing Business 2020, theo đó Việt Nam tăng 1,2 điểm (từ 68,6 lên 69,8 điểm), nhưng giảm 1 bậc xếp hạng chung (từ vị trí 69 xuống vị trí 70).
Điều này đánh dấu hai năm liên tiếp Việt Nam tụt hạng trong báo cáo Doing Business, mỗi năm tụt 1 bậc.
Trong số các chỉ số được WB đánh giá, Việt Nam có 5/10 chỉ số tăng điểm (gồm Khởi sự kinh doanh, Cấp phép xây dựng, Tiếp cận điện năng, Tiếp cận tín dụng, Nộp thuế); 4/10 chỉ số giữ nguyên điểm số (gồm Đăng ký tài sản, Bảo vệ nhà đầu tư, Giao dịch thương mại qua biên giới, và Giải quyết tranh chấp hợp đồng). Duy nhất chỉ số còn lại (Giải quyết phá sản doanh nghiệp) giảm 0,1 điểm.
Tuy có 5 chỉ số tăng điểm, nhưng chỉ 2 chỉ số được ghi nhận cải cách về quy định và thực thi, và cũng là hai trong ba chỉ số tăng hạng. Đó là Tiếp cận tín dụng (cải cách về tiếp cận thông tin tín dụng với việc cung cấp dữ liệu từ nhà bán lẻ); Nộp thuế và bảo hiểm xã hội (nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin ngành thuế, đăng ký và nộp thuế điện tử). Đáng chú ý là trong Nộp thuế và bảo hiểm xã hội, WB ghi nhận cải cách của ngành thuế, trong khi ngành bảo hiểm xã hội không có cải cách so với năm 2018.
Nhờ đó, Tiếp cận tín dụng tăng 5 điểm và 7 bậc (từ thứ hạng 32 lên thứ hạng 25); Nộp thuế và BHXH tăng 22 bậc (từ thứ hạng 131 lên thứ hạng 109).
Đáng chú ý, có tới 6/10 chỉ số còn lại giảm bậc, trong đó: Khởi sự kinh doanh giảm tới 11 bậc; Cấp phép xây dựng giảm 4 bậc; Đăng ký tài sản (giảm 4 bậc); Bảo vệ nhà đầu tư (giảm 8 bậc); Giao dịch thương mại qua biên giới (giảm 4 bậc); và Giải quyết tranh chấp (giảm 6 bậc).
Bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - CIEM) nhận xét, rõ ràng Việt Nam có cải thiện về chất lượng môi trường kinh doanh (qua việc tăng điểm), nhưng còn chậm. Trong khi đó, các nền kinh tế cải cách nhanh và mạnh mẽ hơn, do đó thứ hạng liên tục giảm trong 2 năm gần đây (mỗi năm giảm 1 bậc).
Không tiếp tục đẩy mạnh cải cách thực chất, Việt Nam còn thua kém nhiều nước.
Các nước tiến nhanh
Việt Nam tăng điểm nhẹ, trong khi các nước khu vực vẫn duy trì đà thăng tiến nhanh chóng.Các nước tiến nhanh
Trong ASEAN, Singapore duy trì ổn định vị trí thứ 2 từ năm 2016; Malaysia tăng hạng nhiều và liên tiếp trong hai năm gần đây (qua hai năm tăng 12 bậc); Thái Lan tăng tốc mạnh trong năm 2017 (tăng 20 bậc) và tiếp tục tăng trong 6 bậc trong 2019; Indonesia sau 3 năm cải thiện mạnh mẽ và liên tục (năm 2017 tăng 42 bậc so với 2014), từ 2018 có xu hướng chững lại.
Đáng chú ý, Philippines tăng tới 29 bậc trong năm nay.
"Điều này cho thấy các nền kinh tế có xu hướng cải cách nhanh và quyết liệt hơn chúng ta. Trong ASEAN, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 5, sau Singapore, Malaysia, Thái Lan và Brunei", bà Nguyễn Minh Thảo chia sẻ.
Kết quả nêu trên cho thấy, cải cách môi trường kinh doanh ở Việt Nam có xu hướng chững lại và thể hiện thách thức với nhiều chỉ số trong nhiều năm không cải thiện hoặc cải thiện rất chậm.
Vì thế, việc đạt mục tiêu của Chính phủ vào nhóm nước ASEAN 4 về cải cách môi trường kinh doanh càng trở nên khó khăn, thách thức hơn. Thủ tướng Chính phủ thể hiện nhiều nỗ lực, quyết tâm cải cách, song việc hiện thực hoá bằng hành động cải cách của các bộ, ngành, địa phương còn hạn chế.
Do đó, theo bà Nguyễn Minh Thảo, cải cách trước hết phải từ tư duy quản lý của các bộ ngành, cải cách theo hướng vì mục tiêu phát triển doanh nghiệp. Do đó, cần có sự quan tâm, vào cuộc một cách đồng bộ, mạnh mẽ và thực chất của các bộ, ngành, địa phương.
Đối với các chỉ số nhiều năm không có cải thiện hoặc cải thiện chậm (như giao dịch thương mại qua biên giới, đăng ký tài sản,... ), chuyên gia CIEM cho rằng cần có sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan; sửa đổi các quy định và cải cách thực thi để tạo sự chuyển biến. Đối với các chỉ số còn có sự khác biệt lớn giữa quy định văn bản và thực thi (như Cấp phép xây dựng) phải được giám sát, chấn chỉnh nhằm đảm bảo minh bạch, tạo niềm tin cho người dân và doanh nghiệp.
"Đặc biệt, hai chỉ số thuộc lĩnh vực tư pháp, nhất là phá sản doanh nghiệp - trong liên tục nhiều năm ở thứ hạng cuối bảng - cần có sự vào cuộc, phối hợp của ngành toà án để tạo sự thay đổi có ý nghĩa ở các chỉ số này", bà Thảo nhấn mạnh và đánh giá việc rút ngắn thời gian, giảm chi phí cho doanh nghiệp thông qua thực thi dịch vụ công trực tuyến một cách thực chất, "tránh hô hào, hình thức".
Hà Duy
Theo Vietnamnet
Mỗi tháng ngành ngân hàng xử lý khoảng 9,6 nghìn tỷ đồng nợ xấu Lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến 31/8/2019, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được 236,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Tính trung bình trong khoảng thời gian này, mỗi tháng toàn hệ thống xử lý được khoảng 9,6 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 4,7 nghìn tỷ đồng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình từ 2012-2017....